Monday, April 20, 2015

Đệ Tử Viện - Thủ Đức, 1960-1964

Đệ Tử Viện - Thủ Đức, 1960-1964

Qua bài viết “Chuyến xe ân tình” của Frère Minh Alphonse hay còn gọi là Minh Lucky gởi trên email groups, anh em Lasan hải ngoại nhanh chóng biết tin vào ngày 02 tháng 03 năm 2008. Trên đường đi Tây Nguyên, chiếc xe do Frère Lộc cầm lái, trên xe có các Frère: Thành, Tuyên, Nhựt và Frère Hàm đã gặp tai nạn. Các Frère đã được chuyển về Bệnh viện 115 Sài Gòn để điều trị. Và anh em Lasan đã mau chóng đến thăm và chăm sóc cho các Frère gặp nạn. Vì được tin trễ nên khi đến bệnh viện anh JB Nguyễn Tấn Nhơn đã không gặp được Frère Hàm. Anh Nhơn đã quay về Mai Thôn thăm Frère Hàm và gặp được Frère Jean Ba ở đó. Về đến nhà anh Nhơn đã kịp thời chia sẻ với anh em hải ngoại về tình trạng sức khỏe của Frère Hàm và niềm vui của những anh em đã một thời chung sống và học tập với nhau, nay lại được gặp lại nhau.
Những dòng chia sẻ của anh em đã làm sống dậy nơi tôi những ký ức của một thời xa xưa nào đó. Gần 50 năm về trước làm gì đã có những phương tiện lưu trữ dữ liệu hiện đại để bây giờ chúng ta chỉ cần gõ bàn phím là có thể tìm lại quá khứ. Do vậy Phước Martin, tự là Phước móm xin được làm người kể lại chuyện xưa… ký ức nhạt nhòa, sẽ có nhiều điều thiếu sót, xin anh em bổ sung cho câu chuyện ngày xưa của chúng ta.

 Theo thông lệ hàng năm các trường Lasan thường tuyển chọn một số học sinh hoc giỏi và ngoan, vừa tốt nghiệp bằng Tiểu học để gửi vào Đệ Tử Viện.
Vào ngày 18 tháng 6 năm 1960, frère Aimé Minh – Nguyễn Văn Đức đưa một nhóm học trò trường Lasan Đức Minh vào Đệ Tử Viện (Mossard) Thủ Đức. Trong số đó có tôi, Martin Phạm Ngọc Phước và Paul Nguyễn Đức Việt, Francois Phạm Công Việt, Francois Phan Quang Hiển, Joseph Nguyễn Thế Tài (mất liên lạc), Alphonse Trương Văn Minh, Joseph Nguyễn Bá Phước, Nguyễn Kim Hải (em Nguyễn Kim Khánh và Nguyễn Kim Ngân), Vũ Đình Nhã, Jopeh Lê Văn Hùng và còn nhiều người nữa nhưng họ được cho về hay tự xin về sau một thời gian rất ngắn ở Đệ Tử Viện - Thủ Đức.
Trường Lasan Taberd cũng có vài người như Nguyễn Như Sơn – “Sơn Tiều” (em Hải Cồ), George Văn, em của Daniel Văn, Antoine Nguyễn Tấn Lộc “Chúa Đảng Mặt Thẹo AlCapone”, Đỡm ….nhóm này phần đông giỏi hơn nhóm Lasan ĐM về môn Pháp văn.
Trường Lasan Nghĩa Thục – Thánh Giuse, Nha Trang có: Đoàn Gia Hàm – “Hàm Gà”, Nguyễn văn Tư – “Tư Búa”, Nguyễn văn Thủy (vẽ cartoon và viết truyện kiếm hiệp rất hay) Phong, em frère Tú Réginald – sau này hai anh về lại với gia đình, trước khi chúng tôi ra Petit Noviciat – và khi chúng tôi học ở Kinh Viện Đà Lạt thì có gặp lại Thủy và Phong, lúc đó là sinh viên Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt.
Trường Lasan Nghĩa Thục Cù Lao Xóm Bóng có anh Jean Nguyễn văn Ba và em là anh Nguyễn văn Tư cùng anh Phan văn Hợp, con của cụ Vọng ở Đồi Lasan.
Đặc biệt trong lớp này có một người tính tình trầm lặng, siêng năng, đó là anh Nguyễn Văn Tân. Anh được một soeur Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn đưa vào Đệ Tử Viện sau chúng tôi mấy ngày. Tôi còn nhớ lúc đó anh mang cặp kính cận loại Gandhi, và rất ít nói. Anh học rất giỏi và vượt xa chúng tôi, anh đã nhảy lên lớp trên và sau đó một năm anh được đưa ra Chuẩn Viện Lasan – Nha Trang cùng với các anh Tốt, Sĩ Isidore, và Anh Roland…

Vào năm 1960, Đệ Tử Viện Mossard Thủ Đức chỉ có 2 lầu mà thôi. Chiều dài của nhà cũng như hình trên. Đầu nhà chúng tôi có nhà nguyện, sau đó là lớp 7ème Spéciale cùng nhà ăn. Tầng trên là nhà ngủ của các Đệ Tử và phần ở cuối là phòng của các Frères giáo sư và các Frères làm việc cho Bề Trên Cyprien Gẫm. Vào thời này Đệ Tử Viện ăn cơm do Trường nội trú Mossard nấu. Bề Trên Bernard Calyste làm Hiệu Trưởng và Frère Jules Ký (Hòa) làm phó hiệu trưởng. Bề Trên Sébastien Huyến làm Bề Trên Đệ Tử Viện kiêm Quản Lý (Procureur) cho trường Lasan Mossard.

Lớp 7ème spéciale:
Khi đến ĐTV, các học sinh vừa tốt nghiệp bằng tiểu học được cho vào lớp 7ème spéciale. Chúng tôi được học nhiều về Pháp văn cùng lúc với những môn khác.
Năm đó, lớp chúng tôi được frère Nivard dạy Pháp văn, Frère Fédérick Hoàng dạy Mathématique, Frère Fernand Lamdeck dạy Sciences Naturelles, Histoire và Géographie, Frère Ninh Nguyên (Một Frère Kinh Viện ra dạy sớm) dạy chúng tôi Anh Văn….
Một kỷ niệm khó quên của năm học này là Bề Trên Sébastien tập văn nghệ cho lớp chúng tôi vào dịp lễ Bổn Mạng Đệ Tử Viện – Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh 2-2. Bề Trên tập cho Hàm Vincent hát đơn ca bài gì tôi quên tên nhưng chỉ còn nhớ “…. Ôi quạnh hiu, ôi quạnh hiu ….”  Frère Hàm lúc đó dể thương và hát rất hay. Những người không có khiếu âm nhạc thì Bề trên cho làm diển viên hoạt cảnh về một đoàn thủy thủ bị đắm thuyền lạc vào một đảo hoang và bị một nhóm thổ dân Phi Châu bắt và đem đi ăn thịt…. nhưng sau đó họ trốn thoát được. Trong hoạt cảnh này tôi được chọn làm một thổ dân da đen. Khi diễn hoạt cảnh này chúng tôi bắt buộc phải lấy lọ nồi trét từ mặt cho tới chân, trừ phần chúng tôi mặt quần xà lỏn mà thôi!… Khi màn vừa kéo xuống, chúng tôi phải chạy nhanh ra nhà tắm để kỳ cọ cho sạch lớp lọ nồi cho kịp mặc đồng phục để hợp ca trước khi bế mạc chương trình.
Cũng trong năm này tôi được sống cùng đội với những anh sau đây:
Nguyễn văn Tường “Tường hí” (lớp 5ème) – đội trưởng Nguyễn văn Lộc – (6ème) đội phó Trần Ngọc Minh, Huỳnh Công Tác, Trần văn Hòa (6ème préparatoire). Nguyễn Thế Tài, Lê Văn Hùng.

Nguyễn văn Tường “Tường hí” (lớp 5ème) – đội trưởng Nguyễn văn Lộc – (6ème) đội phó Trần Ngọc Minh, Huỳnh Công Tác, Trần văn Hòa (6ème préparatoire). Nguyễn Thế Tài, Lê Văn Hùng và Phước Martin (7ème spéciale).
Một kỷ niệm ma cũ bắt nạt ma mới mà tôi còn nhớ là dù nhỏ tuổi nhưng Phước Martin lớn con hơn anh Lộc đội phó, nhưng vẫn bị anh này ăn hiếp thường xuyên (harrassment). Anh Lộc thường tự do mở tủ của tôi lấy áo chemise sạch và mặc cho tới khi nào dơ thì bỏ trả lại. Vì là lính mới tôi đâu dám méc ai và cứ âm thầm giặt áo cho anh ta mặc.
Trong năm này phần lớn chúng tôi thích chơi đá banh và thích nhất là được tắm piscine.
Mỗi tháng các đệ tử được phép về thăm gia đình một lần vào cuối tuần, tuy vậy chúng tôi thường không về nhà vì ở lại thì được đi cắm trại hoặc đi du ngoạn - vui và thích hơn. Một trong những nơi chúng tôi thường đến là: Đi bộ qua Mai Thôn theo ngã Bình Triệu, đi đò qua Bình Quới sau đó đến khuôn viên Mai Thôn. Thuở đó, Mai Thôn chưa có nhà cửa gì nhiều, là nơi nuôi heo để ăn cơm thừa của các trường nội trú ? Lúc đó tại đây có rất nhiều rác cũng như nhiều con rạch nhỏ với nhiều nước sình, nhờ vậy chúng tôi có những cuộc thủy chiến ngoạn mục. Sau đó chúng tôi được ra mé sông để bơi lội trong vùng nước sạch hơn. Tới giờ ăn trưa chúng tôi được đứng trong một nhà lợp lá, sàn lót bằng những tấm vĩ sắt có thể thấy những con cá lòng tong lúc nước lớn hay cá kèo khi nước ròng (Sau này, cũng nơi này căn nhà bị sụp đã nhận chìm mấy Frères già).
Lúc đó hồn tôi cảm nghiệm được cái đẹp của sông nước thanh bình, và cái bụng đói vì phải đi bộ nhiều cây số, chơi đánh giặc giã trong nhiều tiếng đồng hồ. Phần ăn chúng tôi thường có là 1 khúc bánh mì, 1 trứng luộc, một trái chuối và một trái cam, vài viên kẹo Nougart. Thế mà chúng tôi thấy hạnh phúc vô vàn. Lâu lâu chúng tôi được các Frères cho ăn gà chiên hay rôti thì mừng hết biết. Khi chiều về chúng tôi lại lội bộ theo đường về lại Đệ Tử Viện… Những lần khác chúng tôi đi Suối Tiên, Suối Lồ-Ô hay xa hơn là đi Vũng Tàu, nơi nhà dòng có nhà mát nằm ngay dưới Hải Đăng ở Bãi Sau.
Tuyến đường đi bộ từ Mossard Thủ Đức qua Bến đò Bình Quới rồi đến Mai Thôn • 1960-1963
Bề Trên Nicet Joseph, Tổng Quyền thăm Việt Nam
Nếu tôi không lầm là cuối niên khóa 1962, vào gần dịp Hè – Bề Trên Nicet Joseph từ Roma qua thăm Việt Nam. Đây là một biến cố rất lớn mà tôi còn ghi nhớ. Vì tôi thấy Bề Trên Nicet Joseph lúc đó được tiếp đón rất là long trọng. Chúng tôi được làm hàng rào đón chào ngài từ trên phi cơ xuống, các trường Lasan diển hành và có biểu diển thể thao…. Nhưng điều tôi không thể nào quên là các Đệ Tử chúng tôi được đi Đà Lạt rồi xuống Nha Trang để cả nhà dòng Lasan VN trình diện với Bề Trên Tổng Quyền - tất cả các Đệ Tử Viện, Chuẩn Viện, Tập Viện, Kinh Viện, và các Frères trong dòng Lasan
Tôi xuất thân ở miền Nam, khi còn rất nhỏ chỉ biết sông rạch, đồng bằng, cái núi cao nhất mà tôi biết là núi Châu Thới (Biên Hòa); nơi tôi có dịp đi du ngoạn lúc cuối tuần khi còn ở Đệ Tử Viện Thủ Đức. Núi này không cao lắm có lẻ cở như Đồi Lasan Nha Trang – nhưng người miền Nam lại gọi là Núi Châu Thới.
Hành trình mùa hè năm ấy rất là vĩ đại vì chúng tôi được các Bề Trên mướn 2 xe đò và một xe Renault (mini van) để chở thức ăn và thức uống. Suốt chuyến đi chúng tôi được ngừng lại xem nhiều thắng cảnh rất đẹp như Đá Chồng ở Định Quán, Thác Pongour – Lâm Đồng, Thác Gougah, Thác Prenn trên đường lên Đà Lạt.

Đá Chồng – Định Quán



              Thác Pongour – Lâm Đồng


Thác Pongour hay còn gọi là thác Bảy tầng là một ngọn thác tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, nằm cách Đà Lạt 50 km về hướng Nam. Thác đổ từ độ cao gần 40 mét, trải rộng hơn 100 mét, qua hệ thống đá bậc thang bảy tầng. Bao quanh là khu rừng nguyên sinh
có diện tích khoảng 2,5 ha với thảm thực vật đa dạng, phong phú.
Truyền thuyết
Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa, vùng đất Phú Hội - Tân Hội - Tân Thành bây giờ do một nữ tù trưởng K’Ho xin đẹp tên là Kanai cai quản. Nàng có tài chinh phục thú dữ phục vụ lợi ích con người, trong đó có bốn con tê giác to lớn khác thường, luôn tuân lệnh Kanai dời non ngăn suối, khai phá nương rẫy trồng bắp, gieo lúa và sẵn sàng xung trận chiến đấu chống kẻ thù, bảo vệ buôn làng. Nhờ đó, cuộc sống cộng đồng ngày càng sung túc, thanh bình. Mùa xuân năm ấy, đúng ngày rằm tháng giêng, nàng nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Bốn con tê giác quanh quẩn đêm ngày không rời thân chủ nửa bước, chẳng buồn ăn uống cho đến chết... Bỗng một sáng bình minh vừa hé, mọi người hết sức ngạc nhiên khi thấy nơi nàng yên nghỉ sừng sững ngọn thác đẹp tuyệt trần. Thì ra, suối tóc Kanai đã hoá thành làn nước trong xanh, mát rượi, tung bọt trắng xoá, còn những phiến đá bàn xanh rêu xếp từ cao xuống thấp, làm nền cho thác đổ, chính là các cặp sừng của đàn tê giác hoá thạch - biểu tượng của sức mạnh đoàn kết, gắn bó vĩnh cửu giữa con người với thiên nhiên bao la.
Pongour là tên do người Pháp phiên âm từ tiếng bản địa K’Ho: Pon-gou có nghĩa là ông chủ vùng đất sét trắng. Theo một số tài liệu địa chất của người Pháp, vùng đất này có nhiều kaolin.


Thác Gougah – Lâm Đồng
Thác Ổ gà) Nằm cách Đà Lạt 30 km và cách đường quốc lộ 20 chừng 300m (từ Đà Lạt về Sàigòn, qua khỏi thị trấn Liên Nghĩa 8km gặp một ngã ba rẽ phía tay trái).Tên thác Gougah là do người dân bản địa đặt còn tên Ổ Gà là do người Kinh đặt. Theo các truyện cổ Nam Tây Nguyên thì xưa kia Gougah vốn là một vực sâu kho báu của hoàng hậu Naf Biút (nước Chiêm Thành-Chăm). Naf Biút vốn người Việt, lấy vua Chăm, nàng được vua rất sủng ái, để chữa bệnh cho nàng có quần thần tâu phải xây một cung điện ngoài vương quốc Chăm Pa để hoàng hậu dưỡng bệnh và vua Chăm đã chấp thuận. Về sau hoàng hậu mất, nhà vua cho chôn cất ở nơi hoang dã ấy và cho chôn theo một kho tàng vàng, ngọc để hoàng hậu dùng. Còn theo một truyện dã sử khác của người Chăm thì hoàng hậu Naf Biút chính là Huyền Trân Công Chúa.

Thác Prenn
Thác Prenn nằm ở chân đèo Prenn là một thác nước đẹp gần thị xã Đalạt. Thác mang một vẻ êm dịu, duyên dáng như một màn nước đổ nhè nhẹ từ độ cao 10 m xuống một hồ nước nhỏ, xung quanh đầy hoa lá và một đồi thông vi vu.
Khi đoàn xe chậm chậm lên đèo Prenn, mặc dầu lúc ấy đang trưa nắng gay gắt, nhưng tôi được hít thở một bầu khí mát lạnh từ đâu đó tỏa ra làm chúng tôi tỉnh táo ngay. Đường bắt đầu quanh co và dốc lài cao, nên xe chạy chậm hơn, nhờ vậy chúng tôi có thể chiêm ngắm những cảnh đẹp hùng vỹ của núi đồi trùng trùng điệp điệp, những thung lũng ngút ngàn, mà lần đầu tôi được thấy. Vì đoàn Đệ tử quá đông nên Bề trên Sébastien cùng thầy phó Dominique Song đã lỉên lạc với Hội Quán Thanh Niên Đàlạt để được tạm trú vài đêm hầu có thể đi thưởng lãm thị xã Đàlạt. Đalạt đẹp và mát mẻ, nơi đây Dòng Lasan có 2 cơ sở giáo dục khá nổi tiếng như Trường nội trú Adran, và Kỹ Thuật. Về cơ sở huấn luyện dòng Lasan có Kinh Viện nơi các sư huynh trẻ có phương tiện học Đại Học Đàlạt. Kinh viện Lasan tọa lạc tại 6 Trần Hưng Đạo, nằm ngay ngõ rẻ trái trước khi vào Thị Xã. Nơi đây có hai căn nhà đá rất gọn gàng và nên thơ. Căn nhà phía trước có treo bảng hiệu Biệt thự Lasan bằng chữ Hán, còn căn nhà nấp phía sau có tên là Bonheur Vert – mà tôi nghe có người gọi vui là Lầu Xanh. Chúng tôi đã được ghé thăm chớp nhoáng nơi này và sau đó theo đường mòn đi đến xem trường Lasan Adran thay vì đi bằng xe. Nhờ đi len lỏi giữa rừng thông, nên chúng tôi mới cảm nghiệm được cảnh đẹp núi đồi Đàlạt. Cũng trên đường mòn từ Kinh viện qua trường Adran, tôi được biết thêm cái thung lũng phía dưới chân đồi là Rừng Ái Ân.

Hình do Phước Martin chụp năm 1972:
Kinh Viện Đalạt.
Rừng Ái Ân  và Sương mù ban mai, Sương mù - Hồ Xuân Hương
Sau đó, đoàn xe di chuyển về Hội Quán Thanh Niên của Thị xã Đalạt. Ngày nay tôi không còn nhớ Hội quán này nằm ở đâu. Tôi chỉ nhớ nơi đây cũng tọa lạc trên một ngọn đồi, có các phòng ngủ rất lớn và các giường đều là loại hai tầng. Chúng tôi chỉ ăn uống và ngủ tại đây, những giờ khác chúng tôi được đưa xem nhiều thắng cảnh quanh vùng.
Trong những ngày ở Đà Lạt, chúng tôi được ưu đãi đặc biệt. Chúng tôi được đưa đi thăm trường Võ Bị Quốc Gia. Tại đây chúng tôi được gặp hai Frères đang làm giáo sư và cả hai đều mang quân hàm Sĩ Quan của QLVNCH. Sư huynh Guillaume nếu tôi không lầm là ở cấp tá và Sư huynh Alexandre Lê Văn Ánh ở cấp Trung úy hay là Đại úy. Các Frères làm giáo sư dạy các môn học phổ thông, song song với các môn học quân sự, trình độ tương đương với giáo sư Đai Học.
Sau khi thăm Trường Võ Bị, cả đoàn được đưa đến Hồ Than Thở gần bên có Đôi Thông Hai Mộ để chúng tôi ăn trưa và chơi để sau đó đi thăm Suối Vàng.
Rồi một buổi sáng sương mù còn giăng đầy thành phố núi, đoàn xe chúng tôi bắt đầu lăng bánh xuống đèo Ngoạn Mục (Belle Vue). Đây là lần đầu tiên trong đời tôi biết sợ hố sâu như thế nào… vì sinh ra tại Saìgòn tôi chưa bao giờ biết cảnh núi non hùng vĩ như khi đi qua đèo Ngoạn Mục này.

Khoảng thời gian của những năm này, đường đèo con nhỏ và hẹp nên các xe chỉ được lưu thông một chiều. Ban sáng các xe từ Đalạt xuống Phan Rang, và sau trưa thì đường đèo sẽ chỉ có một chiều xe đi ngược lại. Thuở đó tôi còn nhớ sương mù rất dày và bay rất thấp và lạnh, đôi lúc có cảm tưởng như đang sống trong mây! Càng đến gần Đơn Dương với Đập Đa Nhim với những ống dẩn nước vào Tubine to khổng lồ để làm lực năng và tạo ra điện năng. Số lượng nước từ Đập Đa Nhim đều được đổ xuống Sông Pha.

Cuộc hành trình tuy chậm và rất lo sợ của chúng tôi tan dần khi xe càng xuống đồng bằng, và rồi vào thị xã Phan Rang, nơi đây chúng tôi được ăn trưa và nhận thêm vài người bạn Đệ Tử sống tại vùng này như hai anh Đồng Lòng, Sơn Phan Rang.
Sau đó đoàn xe tiếp tục đi về hướng Nha Trang ngang qua Cam Ranh, Suối Dầu, (cổ) Thành, Thị Xã Nha Trang và cuối cùng chúng tôi leo dốc đồi Lasan để vào nơi mà chúng tôi luôn mong được đến đây sau này.
Đồi Lasan thật đẹp, ngăn nắp, hoa nở rực trời.
Đoàn xe chúng tôi lặng lẽ di chuyển xuống Lasan Cù Lao (Lasan Vĩnh Phước sau này) để tất cả chúng tôi chia ra chiếm cứ các lớp học của ngôi trường tiểu học này. Mỗi chúng tôi được một chiếc chiếu con, và có một nơi tạm trú suốt một tuần lễ tại đây. Thật là vui sướng vì chúng tôi được đi tắm biển Hòn Chồng, đi thăm Đèo Rù Rì, đi Lương Sơn và nhất là được đi thăm cũng như tắm biển Đại Lãnh. Từ trên cao nhìn biển Đại Lãnh, tôi nghĩ đây là một bức tranh tuyệt đẹp. Từ phía trên nhìn xuống nước biển một màu xanh biếc, trong veo gần như có thể thấy suốt được. Cảnh đèo thuở ấy còn hoang sơ, bải biển cát trắng ít người qua lại. Chúng tôi gần 120 người đổ bộ xuống đây tắm biển. Nước mát, trong xanh, rất thích hợp cho chúng tôi bơi lội nhưng cuộc vui bị tàn lụi dần vì chúng tôi bị một tiểu đoàn sứa trắng và sứa lửa tấn công… thoạt đầu không biết thì nói ca thán! Quái sao cái gì ngứa quá! Sau đó có người la lên và chạy lên bờ với những lằn roi quất vào da rướm máu. Bề Trên Sébastien thổi còi cho mọi người lên bờ. Có một người đi ghe đánh cá ghé qua và chỉ dẩn cho chúng tôi cách chữa sứa, bằng cách lấy lá rau muống biển mọc dọc bờ biển, vò hoặc bỏ vào miệng nhai rồi đáp hay chà vào vết thương thì cảm thấy không còn ngứa và sau đó vết thương cũng lành nhanh.

Trong thời gian chúng tôi ở Nha Trang để yết kiến hay trình diện tỉnh dòng Saigon vời Bề Trên Tổng Quyền Nicet Joseph, chúng tôi may mắn được tham dự nghi thức mặc áo dòng của đoàn 80. Sau thánh lễ Mặc Áo Dòng, tất cả mọi người hiện diện ra đứng trên các cấp thang nhìn xuống Vườn Mít chụp hình chung lưu niệm. Tôi không nhớ tại sao tôi giữ được cái ảnh này từ những năm đó cho tới nay, hình này được tôi scan với độ rõ “thật khủng” để quí anh có thể tìm bóng dáng mình của hơn nửa thế kỷ. Nhìn hình chúng tôi không quên cầu nguyện cho những người đã về với Chúa và cho những gương mặt thân thương bạn bè chúng ta.

(Hình Dòng Lasan chụp với BTTQ Nicet Joseph và Phụ Quyền O’Toole cùng Bè Trên Giám Tĩnh Bernard Lê Văn Tâm)

Đoàn 80 (Nicet Joseph) – mặc áo dòng
Chụp chung với BT Gaston, Daniel Trạng và Valetin Quý

Không ảnh Đồi La San

Chuẩn viện Đồi La San Nha Trang
Nhà Đệ Tử Viện – tăng thêm Tầng Ba:
Trong kỳ nghỉ hè này thì Nhà ĐTV được nâng lên thêm một tầng nữa vì nhu cầu chỗ ở của các Đệ tử quá đông. Vào năm 1960-1961 ĐTV có khoảng 120 em gồm từ lớp 7ème tới 5ème. Trong ba tháng Hè này nhà chúng tôi được nâng lên thêm một tầng nữa, và do một nhà thầu là người anh ruột của Bề Trên Bernard Lê Văn Tâm đảm nhận việc xây cất. Sau khi hoàn tất ngôi nhà trở nên rất tươm tất và được sắp xếp như sau: Tầng trên hết làm nhà ngủ cho các Đệ Tử và một phần còn lại làm phân ngủ cho các Frères giáo sư Đệ Tử Viện
Tầng dưới làm Nhà Nguyện và cộng đoàn nhà Giám Tỉnh cùng các Frères lớn tuổi về hưu như Frère Joachim Hộ, Frère Aymard, Frère Louis, Frère Gilles, Frère Domini …
Khi nhà mới gần hoàn tất, cũng là lúc chúng tôi nhập học sau 3 tháng hè, mà điện chưa được chạy đường dây, cho nên nhà ngủ vẫn còn thiếu ánh sáng. Tôi còn nhớ rõ có 2 Frères trẻ (ốm sương sương) nghe nói từ Communauté de Taberd đến để giúp chạy điện cho ĐTV – Đó là Frère Donatien Nguyễn Xuân Nhựt và Frère Denis Hồng. Sau khoảng một tuần thì đèn được thấp sáng mọi nơi. Hoan hô hai Frères và chắc chi tiết này ít ai nhớ!
Nói về Frère Donatien Nhựt (1968-1972) được du học tại Hoa Kỳ và đậu tiến sĩ Giáo Dục về ngành toán, về lại Việt Nam được chọn làm Giám Đốc Học Viện tại Mai Thôn. Khoảng 1974 thì Frère ra dòng và rồi đến khoảng 1980 tôi gặp lại “chú”  Donatien tại Houston trong một lần đi nhà thờ Vincent de Paul. Vì còn bỡ ngỡ với PM và vì không muốn giao thiệp rộng nên chú cho tôi biết là gia đình đang cư ngụ tại Waco, Texas, còn Donatien thì ở tạm Houston để đi làm việc cho USCC (Catholic Charities). Tôi cũng được biết thêm, Donatien học tại Lasan Mỹ Tho, dưới một lớp của ông Nguyễn văn Nhờ, ba vợ của tôi, nên từ đó tôi xưng hô Chú Cháu với Donatien. Và vì tế nhị nên chú thím lại gọi tôi bằng chú Phước (chú của con chú!). Và từ đó tôi được nối tình thân với gia đình chú thím.

Lớp 6ème préparatoire:
Sau khi trở về từ Nha Trang, chúng tôi nhập học niên khóa mới, có rất nhiều thay đổi. Bề Trên Đệ Tử Viện vẫn là Frère Sébastien. Phó Bề Trên là Frère Domique Song, thuyên chuyển từ Lasan Mossard qua. Năm này chúng tôi còn có Frère Gilles vào dạy Anh Văn và Frère Aymard rất giỏi toán dạy, nhưng cả hai Frères đều có bệnh tâm thần nên sau một thời gian ngắn BT phải thay thế bằng Frère Ninh Nguyên dạy Anh văn bằng phương pháp Đoàn Mười, và hình như Frere Victor Bửu dạy Toán. Năm này Bề Trên Sébastien và thầy Phó Dominique Song vẫn như cũ. Ban Giáo sư có phần hùng hậu hơn năm trước. Vì càng ngày các lớp được mở tại ĐTV chớ không gởi các Đệ Tử qua Mossard học chung với học trò nội trú.
Frère Innocent Từ và Gontran Thịnh (Nguyễn văn Ghi) từ Taberd đổi về làm giáo sư Toán và Việt Văn, cùng lúc đó 2 Frères cũng là sinh viên để học cho xong văn bằng cử nhân. Có một Frère mới nữa là Frère Jean Baptiste Trang mới ra dạy học. Trước đây Frere là một giáo viên của trường Taberd, tu muộn.
Thêm vào đó còn có Frère Girard Nhơn (RIP tại Úc Châu - còn gọi là Frère Girard “Mù” vì Frère chuyên lo cho người mù ở Hiền Vương). Frère đến từ trường Miche, Cao Miên. Frère Girard đã dùng phương pháp tính nhẩm cũng như bàn toán Tàu (abacus) để dạy chúng tôi. Frère Girard còn dạy chúng tôi thổi kèn. Đây là những kèn đem từ trường Miche về trước khi chuyển về Chuẩn Viện hay bán cho Taberd.
Lớp chúng tôi nằm cận bên cái bồn nước (citerne) và cầu thang nên lớp học có phần hơi tối tăm. Frère Bonard Hồ Đình Bá ((RIP tại USA) chuyển từ Taberd về dạy Pháp văn. Năm đó các cây “cơ” thụt Bi-da đều bị gẩy vì khi Frère nổi giận thì dùng cây này để đập các đệ tử. Hơi ác! Chúng tôi rất sợ frère!
Năm này có sự thay đổi lớn cho một số anh ở lớp 6ème préparatoire có học lực kém được chuyển sang chương trình Việt, và phải di chuyển ra Nha Trang.
Lớp 5ème:
Thầy phó Bề trên, Frère Domique là chủ nhiệm (titulaire) cho lớp chúng tôi. Đây là lớp đầu đàn vì chúng tôi là những người ở ĐTV lâu nhứt. Hầu hết chúng tôi chơi thể thao rất giỏi, như Khanh Kinh Kong, Thụ Việt, Minh Joachim… là những cầu thủ bóng rỗ nổi tiếng. Ngoài ra đội Túc cầu của lớp chúng tôi luôn đè bẹp các lớp đàn em. Có một sự xích mích giữa 2 ông bầu hai lớp là Frere Jean Baptiste, Frère Dominique, mỗi khi chúng tôi có những trận đấu gay go. Hình như thuở đó Frère Jean Baptiste có vẻ không ưa các Đệ tử lớp 5ème, và khi thi đấu nếu có dịp phạt thì Frère ít khi tha.
Tôi còn nhớ vì ham đọc chuyện “Thiếu Lâm Trường Hận” – tôi đã trốn vào cầu tiêu sau khi đã lên giường ngủ, bị Frère canh me bắt quả tang sau khi bước ra khỏi nhà cầu. Frère lập biên bản và phạt tôi 1 tháng ăn cơm đứng tại mỗi bữa ăn. Như vậy tổng cộng là 180 lần ăn cơm đứng. Thiệt là ác nghiệt. Thứ nhất là mắc cỡ, thứ nhì là rất khó ăn vì phải cầm dĩa ăn đứng, thứ ba là phải đứng trên bục cao kế bên bàn ăn của các giáo sư. Sau một tuần lễ tôi bắt đầu quen và bắt đầu lì ra, rồi tánh phá phách tôi nổi dậy… tôi bắt đầu ăn thiệt lẹ phần ăn của tôi và liền xin ăn đồ của Ban Giáo sư. Tức nhiên các Frere trong ban giáo sư đặc biệt Frère Dominique thường xuyên chuyển đồ ăn tiếp tế cho tôi! Không biết việc này tai hại ra sao, có làm cho các giáo sư đói bụng không, nên mấy ngày sau tôi được tha bổng. Thế là thoát nợ! Frère Jean Baptiste không sống vui với các sư huynh Lasan nên vào cuối năm này 1964, thì ngài ra dòng và gia nhập Đại Chủng viện Phú Cường. Sau 1975, tôi gặp lại Frère ở Hoa Kỳ, và hiện là Linh Mục Trạng, đang phục vụ giáo dân vùng Virginia.
Thế rồi thời gian qua mau, hè đến chúng tôi được chuyển ra Chuẩn Viện (Petit Noviciat) Nha Trang. Giai đoạn 4 năm tại Đệ Tử Viện Thủ Đức được kết thúc từ đây. Cũng năm này Bề trên Sébastien cũng phó BT Dominique đều đổi đi. Người đi về Taberd làm Giám Học Tiểu Học, người về Lasan Khánh Hưng làm Frère Quản Lý.
Những người bạn của tôi trong những năm ĐTV Thủ Đức:
Nếu nói thuở ở ĐTV mà không nhắc đến những người bạn cùng lớp là một điều thiếu sót lớn.
Ngày 18 tháng 6 năm 1960, chúng tôi nhập học Đệ Tử Viện Thủ Đức. Nhờ Frère Aime, dân Lasan Đức Minh chúng tôi hình như quen cái, quen nước hơn những anh từ Nha Trang đến. Sĩ số đến từ Nha Trang và Lasan Đức Minh xem như tương đương. Mấy anh đến từ Taberd có vẻ trội hơn về Pháp Văn, nên học dễ dàng hơn chúng tôi. Thoạt đầu lớp 7eme Special có gần 40 người, nếu viết ra chắc chắn tôi không nhớ hết… và hiện nay có nhiều người đã về với Chúa rồi. Thôi trong bài này tôi chỉ xin nói qua những anh còn lại trong dòng Lasan cho tới nay:
Người tôi muốn nhắc đến đầu là anh Nguyễn văn Tân, đến từ Cái Mơn (không thuộc hệ thống Lasan nào hết). Anh đến ĐTV trễ hơn chúng tôi, nên tôi ghi nhớ rõ ràng hơn. Anh mặc một bộ đồ bà ba trắng, mắt đeo cặp kính cận kiểu Gandhi. Khi đeo anh đưa tay móc đuôi gọng vào lỗ tai của mình nên khó mà rớt!
Anh học rất giỏi nên anh nhảy lớp và sau cùng mặc áo dòng ở Promo 83, trong khi đó phần lớn chúng tôi thuộc promo 87 hay 88 thua anh những 4 hay 5 đoàn… và sau cùng anh đã được chọn làm Giám Tĩnh dòng Lasan.
Người thứ Hai khá nổi tiếng, hiền lành, thánh thiện. xuất thân từ Lasan Nghĩa Thục Cù Lao, Nha Trang. Đó là Frère Jean Trần văn Ba – mà chúng tôi thường gọi với cái tên thân thương là Ti Cu Ba. Frère rất giỏi về kỹ thuật. Frère Jean Ba mặc áo dòng ở promo 85.
Người thứ Ba, mặc áo dòng ở đoàn 88 của lớp chúng tôi là Frere Vincent Đoàn Gia Hàm, với cái tên cúng cơm mà anh em chúng tôi đặt hồi nào không nhớ là “Hàm Gà”. Frère hát rất hay. Và nghe nói sau này Frère lại rất giỏi nghề “nuôi ong trong tay áo dòng” đem mật ngọt cho đời!

Những người cùng lớp gặp lại nhau: Frere Hàm, Nga Thomas, Frere Tân, PM và Frere Jean Ba

Và như vậy, lớp ĐTV 1960 sau hơn nửa thế kỷ chỉ còn lại 3 người bền đổ mà thôi. Còn những anh em kia đâu rồi? Sau đây tôi xin liệt kê theo ký ức, nếu ai thiếu xin giơ tay trình diện nhen!!!
Nhóm Lasan Nha Trang:
Vincent Đoàn Gia Hàm, Phan văn Hợp, Jean Trần văn Ba, Nguyễn Thanh Thủy, Nguyễn Phong, Tư Búa, Lê Quang Lý, Lê Quang Luận, Nguyễn Minh Tân,
Nhóm Lasan Đức Minh (còn gọi Lasan ĐM):
Paul Nguyễn Đức Việt, Francois Phạm Công Việt, Francois Phan Quang Hiển, Trương văn Minh, Joseph Nguyễn Thế Tài (mất liên lạc từ lâu), Martin Phạm Ngọc Phước, Joseph Nguyễn Bá Phước, Nguyễn Kim Hải (em Nguyễn Kim Khánh và Nguyễn Kim Ngân - RIP in Houston, TX), Vũ Đình Nhã, Joseph Lê Văn Hùng.
Nhóm Lasan Taberd:
Pierre Nguyễn Như Sơn (Sơn Tiều), George Văn, Nguyễn tấn Khanh (King Kong), Antoine Nguyễn Tấn Lộc
Nhóm Lasan Khánh Hưng (Ba Xuyên):
Quách văn Mười
Nhóm không đến từ trường Lasan:
Joachim Trần văn Minh, Grégoire Nguyễn văn Tân.

Phước Martin
Tường thuật theo sự phai mờ của thời gian
và sự chuyển động chậm chạp của bộ nhớ về già
Mọi đóng góp tư liệu sẽ được ghi nhận và ghi ơn.

Bài này đã có góp ý điều chỉnh của Anh Hợp (Con cụ Vọng) như sau:
Cám ơn anh Phước đã gợi lại trong tôi những kỷ niệm của một thời đẹp nhất .
Tiện đây xin giúp anh vài chi tiết : phần đầu anh có viết về những người từ La San Cù lao : anh viết dư anh Nguyễn văn Tư (em Frere Ba). Anh này không vào ĐTV với Frere Ba và tôi .
Xin cũng sửa tên họ của anh Phong là Phạm truy Phong (sau này đi Võ bị cùng với Nguyễn thanh Thủy và đã mất trong trại Cải tạo . Chi tiết xin hỏi anh Thánh Luận nhà mình ).
Cám ơn anh .
Hợp.
Thêm góp ý điều chỉnh của Frère Ba (Ticuba):
Chào anh  PM,
Khen Anh nhà SỬ, Địa có trí nhớ siêu việt và tài tổng hợp rất hay. Mong Anh và gia đình luôn được khang an.
Ticuba xin đinh chính lại một chút Ticuba là họ TRẦN chứ không phải là NGUYỄN.  Trần Văn Ba, Em của mình là Trần văn Tư không có vô ĐTV. sau này mình có đứa em thứ Tám (Trần văn Tám) vào DTV Thủ Đức năm 1973 -1974 khi DTV giải tán thì về gia đình luôn.
Nhóm trường La San Cù Lao Xóm bóng do  Frere Harman Hoàng anh Tuấn đưa vào DTV năm ấy gồm có 3 người  là Ticuba, Phan văn Hợp, và 1 anh nữa là Nguyễn ?.Văn..? Đa (Cháu của Fr. Albert Tiên, và Fr, Norbert Choái ) Ticuba không nhớ tên họ chính  xác chắc anh Hợp biết chính xác vì sau này anh Đa có đi Hải quân. 
Kính chúc PM được nhiều sức khỏe và trí NHỚ nhiều nhiều hơn nữa.
Ticuba

No comments:

Post a Comment