Wednesday, October 7, 2015

Kỷ niệm 40 năm thành lập cộng đoàn La San Tân Cang và cộng đoàn La San Phú Sơn

9g 30 ngày 03-10-2015, Thánh Lễ Tạ Ơn đã được cử hành tại Cộng đoàn La San Tân Cang  để kỷ niệm 40 năm thành lập.
Hội Cựu La San xin chúc mừng ngày kỷ niệm 40 năm thành lập Cộng đoàn La San Tân Cang và Cộng đoàn La San Phú Sơn.
Nguyện xin Thiên Chúa qua lời cầu bàu của Thánh Gioan La San sẽ dẫn dắt 2 Cộng đoàn, đặc biệt cho Tập Viện Tân Cang ngày càng thêm nhiều ơn gọi.

Dưới đây là Video Clip Phần 1. Thánh Lễ Tạ Ơn.

 

Video Clip Phần 2.Liên hoan và Chia Sẻ

 

Saturday, September 26, 2015

Vườn Địa Đàng - (Bài của Trần Ngọc Châu đoàn 97)





VƯỜN ĐỊA ĐÀNG   

By Trần Ngọc Châu

Địa Đàng trên chốn Đồi Xanh,            
Quanh năm trái ngọt trĩu cành thấy mê !
BIẾT LÀNH BIẾT DỮ * đừng "bê",
BỒNG LAI TIÊN CẢNH dễ về khó qua *...
         Nói đến VƯỜN ĐỊA ĐÀNG là phải liên tưởng tới vườn cây đầy trái ngon quả đẹp của ông bà nguyên tổ trong Thánh Kinh. Còn Vườn Địa Đàng ở Nha Trang là phải nghĩ tới ĐỒI LA-SAN, nơi thắng cảnh tuyệt vời có một không hai trên hành tinh chúng ta. Cảnh vật hữu tình hữu ý, đồi núi trùng trùng điệp điệp với chung quanh đầy biển cả mênh nông. Từ đồi cao nhìn xuống thành phố trông như một bức tranh thủy mạc, mờ mờ ảo ảo trong làn hơi sương huyền hoặc ...            Diện tích khu đồi thật vĩ đại, chính vì thế mà vườn ở khắp mọi nơi, lại um tùm, đâu đâu cũng thấy cây và bóng mát. Khu vườn chính nằm ở dưới triền dốc (Bocage). Muốn đi tới đó phải xuống một dãy thang cấp bằng đá sâu thăm thẳm. Trên đường đi có trồng hai hàng mít sai đầy trái lúc nào cũng thơm lựng ngang lấp lững tầm tay với mọi người. Nào trái tròn to đến cả người ôm gồm đủ loại như ướt, ráo, dòn cơm và có cả Tố Nữ nữa. Chuẩn sinh và các đoàn thể cấm trại thường vùi dập trái vô các hang hố phủ đầy rơm, lá khô hay cỏ để chờ cơ hội mà vui thú ăn vụng trộm ! Nhưng quả tình nếu có xơi sạch nguyên trái cũng phải là hạng hợm ăn hay như kiện tướng Lê Như Hổ nước ta !... “Đánh” không hết thì cất giấu trong xó xỉnh hay bụi rậm nào đó để chờ cơ hội thanh toán tiếp. Lâu lâu tụi ni cũng giả đò đi bách bộ rồi lạc vô bụi mà mò mẫm tìm hương thừa của ai đó đang giấu kín mà phỏng tay trên !... Nhưng coi chừng,“Ăn vụng phải biết chùi mép” nếu không mùi mít chín sẽ tự tố giác mình ! Hồi mới xây các phòng học cho trường Tiểu Học mới có trồng thêm những hàng mít giống có trái cơm dầy và thơm ngon tuyệt ...          Gần cuối đường đi về phía trái là khu vườn cây chính có rào giậu hẳn hoi. Thường thì chuẩn sinh khó vào được trong ni vì có các nhân viên nhà dòng coi giữ. Bên trong có giếng to vĩ đại để cung cấp nước cho toàn đồi. Các gia cầm như công rực rỡ muôn màu, rồi gà tây, ngang, ngỗng, thỏ, dê, cừu, cùng chim muôn đủ loại. Trái cây thì có vú sữa trông thật hấp dẫn do bởi màu sắc thay đổi, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Nhưng lại càng “mê li” hơn bởi hình thể đa dạng. Chẳng hạng vú sữa câu có hình thon gầy, nhỏ gọn như trái câu tươi tựa như các thiếu nữ vừa "mới lợn" thật ngộ nghĩnh nàm thao ! Riêng vú sữa bơ hồng (khi chín có vỏ hồng nhạt, vỏ mỏng cơm dày) trông đầy đặn, căng tròn tựa như những phụ nữ đầy sức sống vươn lên. Vú sữa mướp thì hơi dài trông mạnh bạo, rắn rỏi và thiên nhiên như của các thiếu nữ miền sơn cước. Còn vú sữa nếp thì tròn đầy, phát triển toàn vẹn như bầu sữa mẹ trông thật đáng yêu v.v...         Thường thì vú sữa chín cây không nên ăn liền vì còn nhiều mủ. Muốn ăn cần phải bóp đều chung quanh. Nhưng phải thật nhẹ nhàng, nếu không sẽ bị giập và chảy nhựa ! Hãy bóp cho đều, cho tới khi nó mềm ra, rồi cắn nhẹ ở phần cuống cho vừa một miệng ôm rồi mút vào. Hãy hút lấy từ từ chất dịu ngọt của nước cốt sữa. Chầm chậm hút lấy để cảm thấy mùi thơm, ngọt, thanh, mát của chất cốt. Rồi sau đó mới ngậm lấy cái cơm có hòa với nước cốt cùng nhai từ từ để loại ra cái hột mà phun bỏ đi. Xong nuốt từ từ để hưởng lấy nguồn khoái cảm tuyệt dịu, thơm ngon ngọt ngào của trời cho tợ như em bé đang bú lấy bầu sữa mẹ mà thấy phê !...
                   Rồi đến Likima, còn gọi là trái trứng gà hay Ô-Ma rơi rụng đầy vườn. Đây là loại trái thường được dọn cho các chuẩn sinh trong giờ cơm. Ăn riết rồi sinh ngán nên thường châm biếm gọi là trái KÍT GÀ. Thường thì trái Likima chín cây ăn liền không thấy ngon. Phải đem giú cho tới khi mềm nhũn như lên men ăn thật tuyệt. Nhớ lần bị phạt (hay bị quên) hổng ăn cơm trưa vì không thuộc bài VĂN TẾ TRẬN VONG TƯỚNG SĨ của Frère Pio ĐÔNG, may nhờ Cụ VỌNG tiếp tế cho mấy trái Likima mà thấy tinh thần sảng khoái dzui hơn (hic hic)!
         Loại trái cây tiếp theo cũng thường được tiếp tế trong giờ ăn là Mãn Cầu hay còn gọi là trái Na, mãn cầu ta thường có nhiều hột. Loại mãn cầu dai ít hột, cơm lại thơm dai và đậm đà hơn. Mãn cầu rất dễ trồng lại sai quả dễ phân chia cho nhà đông con như trên đồi. Những lũ hay trộm vặt, vì phải tranh thủ lo dzọt lẹ nên thường nuốt trọng cả hột mãn cầu, mà hậu quả là thường bị sao quả tạ hành hạ cho đớn đau cả tuần lễ liền ...
 Với táo dai, ăn vừa giòn lại ngọt ngọt chua chua hấp dẫn, nhỏ gọn, dễ dằn túi, ăn dần, tiện lợi, và nhất là dễ tránh sự dòm ngó của “phe ta”. Ổi thì ê hề, nhưng coi bộ cũng không hấp dẫn anh em, có lẽ vì sợ ... hột !
       Xoài thì khỏi chê, thường dùng chín. Xoài tượng thích ăn sống trái dài hột lép có vị ngọt chua mà thanh chấm với muối ớt ... Ôi, mùi vị mặn, ngọt, chua, cay tổng hợp. Một sự pha lẫn tuyệt diệu như bay bổng lên chín tầng mây và ... thật yummy làm sao ! Các trưởng nữ Hướng Đạo, Hùng Tâm Dũng Chí và các Cô Giáo thường chết mê chết mệt với những loại xoài ni. Và dĩ nhiên ông thầy quản lý khi mô cũng cười híp mắt vì được các Evà ni tưng tiu, nịnh hót để được tặng … xoài !
         Riêng với thanh long thì đỏ rợp cả mùa hè. Thủy thổ nơi đây trồng thanh long rất hợp. Thanh long sống bám trên những thân cây lớn mà sinh hoa kết quả. Những trái thanh long đỏ hồng phủ rợp từ trên cao trông như những chiếc lồng đèn giăng từ trời cao để đón mừng những chú rồng bay uốn lượn từ trên không. Cảnh ngoạn mục đó trông như chốn thần tiên chỉ có nơi tiên cảnh !...
                Ngoài ra còn có khế, cam, nhãn, SABÔCHÊ, mãn cầu Xiêm, chuối, nho v.v... hầu như cây ăn trái nào cũng có. Khu VƯỜN ĐỊA ĐÀNG nơi đây thường chứng kiến những chú chuẩn sinh có thú hay hái trộm. Chẳng hạn Phương Cao, Nghĩa Bà Già và một số anh em thường lợi dụng giờ nghỉ trưa hay đêm tối để chui vô vườn mà thưởng thức. Nhiều khi cũng bị phát hiện do tính lơ là quên “lau chùi mép” mà bị phạt piquet hay quỳ gối đến xưng phù nhưng vẫn chứng nào tật nấy, nghĩa là vẫn luôn vui thú hái trộm cho dù có phải chấp nhận thương đau ...
                 Ngoài khu trái cây chính, đồi La San còn có khu vườn nhà bếp. Nơi đây có mấy cây Likima luôn là đề tài cho lũ chuẩn sinh đi lấy cơm bị trể, vì ăn chùng ăn lén quên cả giờ giấc hay quá tinh nghịch ném đá, ném lon mà sao trái không rụng, lại bay vô nồi súp nóng hổi của cả đồi, làm cho cả bọn ăn canh có mùi ... đá ! Phía sau dãy nhà bếp có khu vườn mọc um tùm kín đáo. Ngồi trốn trong bụi tha hồ mà vui thú ăn vụng trộm khó ai nhìn thấy. Vườn có đủ loại cây, nhưng trổi vượt vẫn là những cây vú sữa thuộc loại thâm niên, nghĩa là cho rất nhiều trái nhỏ (loại vú sữa câu). Qua khỏi khu vườn nầy, chạy dài xuống các bậc thang cấp bằng đá đến tận trại nuôi heo của nhà dòng có cây me to bị “quỷ ám”. Nghĩa là ai đụng đến nó thì cũng từ què tới bị thương ! Nhớ thuở nào, lũ quỷ sứ gồm Trứ Nẫu, Nghĩa Bà Già, Minh Xi và Hoàng Thái trèo me. Kết quả là có người bị té lọi tay, u đầu và chảy máu !... Rồi đến vườn cây nho nhỏ xinh xinh và sinh sau đẻ muộn của Thỉnh Viện. Cuối cùng là khu vườn Nhà Tập, nơi đây trồng đủ loại cây, đặc biệt có giống nho ngọt được gây giống đầu tiên ở Khánh Hòa. Tiếng đồn vang xa khắp mọi miền và ai ai cũng nô nức muốn biết tiếng nơi đây. Riêng các đoàn thể cấm trại thì thường khoái Tra ngoài sân vườn Nhà Tập. Ăn có vị ngọt và chát. Hột thì to, bao bọc bên ngoài là lớp vỏ nâu xậm trông thật hấp dẫn. Nhai trong miệng rồi phun hột ra như bắn phi tiêu cũng sướng mê tơi. Ngoài ra, các Frères còn có các khu vườn ăn trái nổi tiếng khác như ở FARRAUT và LƯƠNG SƠN ...
  Hoa và những “bông hoa biết nói”           


Nói đến VƯỜN ĐỊA ĐÀNG ở Đồi La San mà không nói đến hoa, đến cảnh hay đến người là cả một thiếu xót. Vườn hoa ở Đồi La San luôn khoe màu khoe sắc hầu như quanh năm, nhất là trong những ngày hội lớn,“văn nghệ”…  Nào hồng nhung, tía, vàng đủ loại.  Rồi thược dược, cẩm chướng, lan v.v… như thôi thúc dập dìu những tài tử giai nhân.  Và những bông hoa biết nói đã chọn nơi chốn này để khoe sắc hay tính chuyện như ri:
Giai nhân nay hẹn lên đồi,
 Tìm xem các chú thử lôi tên nào …
 Ông thầy xem số nói rào:
 “Lợi thì có lợi … nhưng ‘khều’ nàm thao” !?!

           Dù gì cũng có “tiếng sét ái tình”... Nơi đâu có trái cấm, nơi đó càng có sức quyến rũ lạ thường. Chỉ những người quyết chí tu hành mới đạt thành chánh quả!... Xin người đẹp hãy buông tha, vì đây là …  trái cấm!  

  Những “Bông Hoa Biết Nói” đang khoe sắc hay “chiêu mời” trong những ngày hội lớn …   
Ai xinh trong chiếc áo màu,
 Để tôi ng ngẩn, dáng sầu tương tư.
 Tình yêu tôi hãy còn dư …
 Phần chia cho Chúa, nửa dư … tặng nàng !!! 
Ai xinh trong chiếc áo dài,

  Để tôi trông ngẩn hình hài đáng yêu.

  Tại tôi hay tại dáng kiều,

  “Tình” xin dâng Chúa, chữ “iêu” tặng nàng…

             Rồi thời cuộc đảo điên, sau năm 1975 toàn bộ Đồi La-San bị trưng thu để nhường cho các sinh viên và những cán bộ công nông từ rừng núi trở về … Khu Vườn Địa Đàng nay trở nên xác xơ, bàn ghế bị đập phá (để làm củi), công trình kiến trúc Đồi bị thay đổi và xây cất vô trật tự v.v… thì những ký ức trên đây là để tiếc thương cho một “Thiên Đường Đã Mất” của thời vàng son thuở nào …
ĐỊA ĐÀNG cây trái xác sơ,
Còn đâu năm tháng như mơ CÕI BỒNG.
 Tiên, phàm nay đã chạy dzông,
  Để cho Mường, Mán thay bông trồng mì …


 
Thân mến,
Châu Kool (Group Exodus 97)
* BIẾT LÀNH BIẾT DỮ: Cây cấm trong Kinh Thánh, ý nói các trái cây đều cấm hái ở trên Đồi.
* “BỒNG LAI TIÊN CẢNH dễ về khó qua”: Vườn Địa Đàng ở Đồi La-San; coi chừng dễ bị đuổi về, khó xin vô.


Ngoại Đạo - bài của lm Nguyễn Tầm Thường

NGOẠI ÐẠO
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao...
(Hoa trắng thôi cài lên áo tím '' - Kiên Giang Hà Huy Hà)
Là người ngoại đạo sao lại tin có Chúa ngự trên cao? Ðã tin Chúa ngự trên cao là có đạo rồi. Nếu tin Chúa ngự trên cao mà vẫn ngoại đạo chỉ có nghĩa là có đạo mà không vào đạo thôi.
Nhiều người có đạo nhưng không vào đạo. Cũng như nhiều người vào đạo nhưng không có đạo. Thơ Nguyên Sa bảo rằng nắng Saigon tôi đi mà chợt mát vì em mặc áo lụa Hà Ðông. Cũng nắng Saigon tôi đi, nhưng sẽ chẳng chợt mát khi lòng tôi không có áo-lụa-em bay. Áo lụa cũng phơi bên sân hiền nhà ai. Dưới ngõ trúc cũng là áo lụa ai đi về. Cũng là áo lụa đó, nhưng vẫn là khác. Phải là áo-lụa-em bay lòng anh mới chợt mát.
 Như thế, xem ra, cái gần gũi không gian có là gần mà vẫn là xa. Cái lòng mình chợt mát phải là cái gì thiêng liêng hơn, nó ở trong hồn ta chứ không ở ngoài ta. Nếu nó ở ngoài ta thì bất cứ áo lụa nào lòng tôi cũng chợt mát, bất cứ nắng nào cũng được chứ không phải nắng Saigon. Cái nắng Saigon, con đường Duy Tân lá đổ, hàng me già công viên, tự nó chỉ là me, là nắng, là lá đổ mà thôi cho những ai đi giữa Saigon mà không có Saigon với áo-lụa-em trong hồn mình. Còn ai có áo-lụa-em thì nắng là chợt mát, lá đổ là muôn chiều dư âm. Ðạo cũng thế, chỉ khi nào đạo ở trong tôi mới là có đạo, mới là "chợt mát", là ơn cứu độ.
Thủa xưa cũng đã có một chuyện tình. Ngày đó, sau khi phạm tội, Ađam cùng Evà đi "trong địa đàng" nhưng vẫn là rũ úa giữa địa đàng. Như thế, "tôi ở trong địa đàng" vẫn là thống khổ, chỉ khi "địa đàng ở trong tôi", lúc đó tôi mới "có địa đàng", bấy giờ mới là gió lụa, mới là nắng hoa, mới là lòng mình chợt mát.
Nói về có đạo và vào đạo thì Phúc Âm có nhiều biến cố tường thuật về những người ngoại đạo nhưng lòng họ thì lại có đạo.
Một người ngoại đạo
Kết thúc cuộc đời rao giảng của Chúa là khúc đường vác thập giá lên Núi Sọ. Nếu Chúa vác không nổi mà chết trên đường đi thì hành trình cứu chuộc có dang dở không? Ðó là câu hỏi giả sử mà thôi. Thực tế, hành trình cứu chuộc đã không dang dở. Chúa đã không kiệt sức mà chết trên đường đi vì đã có người vác đỡ. Kẻ vác đỡ thánh giá là ông Simon, người xứ Kyrênê, ông là một người ngoại giáo (Lc. 23:26).
Một người ngoại giáo nữa
Trong quãng đời mục vụ của Chúa, Tin Mừng thánh Matthêu có kể câu chuyện đức tin của một người như thế này:
Khi Ngài vào Carphanaum, thì một viên bách quản đến gặp Ngài, van xin: "Thưa Ngài, tên hầu của tôi nằm liệt bất toại ở nhà, phải đau đớn dữ dằn." Ngài nói: "Ta phải đến chữa nó?" Viên bách quản thưa lại: "Thưa Ngài, tôi không đáng được Ngài vào mái nhà tôi. Song Ngài hãy phán một lời mà thôi, thì tên hầu tôi sẽ khỏi, vì tôi đây tuy là thuộc hạ, thế mà có lính tráng dưới quyền tôi, tôi bảo người này: "Ði đi!" là nó đi; và bảo người khác: "Ðến!" là nó đến; tôi bảo tôi tớ của tôi: "Làm cái này" là nó làm". Nghe vậy Ðức Kitô ngạc nhiên và nói với các kẻ theo Ngài: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, ta chưa hề gặp được lòng tin lớn như thế nơi một người nào trong Israel" (Mt. 8:5-10).
Lại một người ngoại giáo nữa
Câu chuyện trên là chứng nhân của niềm tin. Câu chuyện dưới đây nói về tâm tình biết ơn, cũng lại là một người ngoài.
Nhằm lúc Ngài vào một làng kia, thì mười người phung hủi đón gặp Ngài. Ðứng đàng xa, họ gióng tiếng lên mà rằng: "Lạy Thầy Yêsu, xin thương xót chúng tôi!" Thấy vậy, Ngài bảo họ: "Hãy đi trình diện với hàng tư tế." Và xẩy ra là trong lúc họ đi, thì họ đã được sạch. Một người trong bọn thấy mình được lành thì quay lại lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mặt dưới chân Ngài mà tạ ơn. Người ấy là một người Samari. Ðức Yêsu cất tiếng nói: "Không phải là cả mười người được sạch cả sao? Chín người kia đâu? Không thấy họ quay lại mà chúc vinh Thiên Chúa, trừ có người ngoại bang này?" (Lc. 17:11-18).
Rồi lại một người nữa ngoại giáo
Thánh Luca thuật lại câu chuyện như sau: "Một người ở thành Yêrusalem xuống Jêrico, giữa đường bị kẻ cướp bóc lột hết và đánh nhừ tử, đoạn chúng bỏ người ấy nửa sống nửa chết mà đi. Tình cờ một trưởng tế đi qua đấy, ông thấy người ấy song tránh một bên mà đi. Lại có một thầy Lêvi cũng qua lối ấy, thầy thấy người ấy song cũng tránh một bên mà đi. Một người Samari nọ, nhân đi đường, cũng đến nơi ấy, thấy thế thì chạnh lòng thương, tiến lại đổ dầu và rượu, ràng buộc thương tích người ấy, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa đến quán trọ, và săn sóc người ấy (Lc. 10:29-37).
Thầy tư tế và Lêvi chẳng những là người trong đạo mà còn hơn nữa, họ là kẻ giảng về đạo. Họ ở trong đạo nhưng lại không có đạo. Kẻ sống đạo lại là người ngoại đạo.
Rồi những người ngoại giáo nữa
Vào đêm Chúa sinh ra, trên bầu trời Belem năm ấy có một vì sao lạ. Cả triều đình và bao nhiêu pho Kinh Thánh, với những kinh sư chuyên môn cắt nghĩa ngôn sứ, mà họ chẳng biết gì, họ phải đợi cho tới khi những kẻ ngoại giáo từ phương xa tới hỏi: Ðấng Cứu Thế đã sinh ra ở đâu? (Mt. 2:1-12). Trên bầu trời Belem năm ấy, vâng: Con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
* * *
Lạy Chúa,
- Nói về niềm tin thì các môn đệ khẳng định Thầy đâu có sống lại (Mc. 16:11, Yn. 20:25). Trong khi người có niềm tin mà tìm hết dòng dõi nhà Israel cũng không thấy lại là một người bên ngoài.
- Kẻ vác đỡ thánh giá cho Chúa trên những bước chân xiêu té cuối đời cũng lại là người ngoại.
- Nói về lòng biết ơn thì ít quá. Trong cái ít ỏi ấy lại cũng là một người bên ngoài.
- Nói về lòng bác ái thương người thì cũng không phải là tư tế hay các vị chức sắc trong đạo mà lại là người Samari, một kẻ ngoại giáo.
Băn khoăn một chút thế nào là "người bên ngoài", thế nào là "người bên trong", thế nào là "ngoại đạo" và "có đạo", con thấy một lần Chúa nói: "Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tự phương Ðông, phương Tây mà đến và được dự tiệc với Abraham, Isaac và Yacob trong Nước Trời, còn chính con dân trong Nước lại sẽ bị đuổi ra bên ngoài tối tăm" (Mt. 8:11-12).
Con không muốn là con dân trong Nước nhưng bị loại ra ngoài. Làm kẻ từ mười phương mà được Nước Trời thì vẫn tốt hơn. Nếu thế thì con phải hiểu ÐẠO là gì. Con phải băn khoăn thế nào là "vào đạo" và thế nào là "có đạo". Trời chiều nay rộng quá, mênh mông như ÐẠO không bến bờ. ÐẠO mênh mông lắm, làm sao con có thể đem ÐẠO vào một định nghĩa chật hẹp được. Làm sao con có thể nhốt ÐẠO vào nhà thờ, vẽ chân dung ÐẠO bằng tờ giấy rửa tội. Ðã nhiều lần con loại bỏ những ai không cùng tôn giáo với con là người "ngoại đạo".
Bỏ cái chật hẹp của lòng mình, con thấy ý nghĩa lời kinh kia quá đỗi thênh thang. Nếu những giải mây ngang đời trôi về vùng trời bao la không biết đâu là bờ bến thì ý nghĩa của lời kinh ấy cũng mênh mông không biết đâu là bến bờ. Lời kinh đó là:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Nguyễn Tầm Thường
(Trích tập Con Biết Con Cần Chúa)

Tin buồn- Mẹ Cựu Sư huynh Minh Alphonse qua đời

Được tin Bà Anê Hồ Ngọc Tuyết, mẹ Cựu Sư huynh Minh Alphonse, qua đời lúc 20g30 ngày 22-9-2015 tại tư gia.
Hội Cựu La San xin Thành Kính Phân Ưu cùng gia đình Cựu sư huynh Minh Alphonse, nguyện cầu Thiên Chúa sớm đón nhận linh hồn cụ bà.

Bài thơ nói về cuộc đời Thánh Gioan La San

Tình cờ, Hùng gặp một CHS La San là Thầy của con mình bên USA.

CHS này là Giáo sư Nguyễn Trần Quyên Di, là Nhà văn Quyên Di của Tuổi Hoa trước 1975. Hiện dạy Việt Ngữ tại Đại học Long Beach, California, USA.

Anh Quyên Di là CHS trường La San Nghĩa thục Vườn Chuối,sau này là Hiệu trưởng trường Nguyễn Bá Tòng SaiGon - là trường Bùi Thị Xuân hiện nay. Anh vẫn nhớ thuộc làu bài thơ về Thánh Gioan Lasan, theo anh, đây là bài thơ được học trong sách giáo khoa của các Freres La San.

Hùng đã xin anh chép lại bài thơ này, gởi từ USA về.

Xin gởi để anh em CHS Đức Minh xem nhé.

                                                         CHS La San Đức Minh Nguyễn Tiến Hùng

http://www.lasanducminh.com/thong-tin-chia-se/cu0c-d0i-thanh-gioan-la-san.html

Cuộc đời của Thánh Gioan

Vốn dòng thế phiệt con quan đại thần

Tánh hay tích đức tu thân

Lại ưa đèn sách chuyên cần ngày đêm

Sang giàu dẹp bỏ một bên

Hy sinh vì Chúa trở nên tông đồ

Luật dòng sáng lập công phu

Mở mang nước Chúa cơ đồ vẻ vang

Sư huynh tuyển lựa giáo ban

Chuyên nghề luyện tập cho đàn thiếu niên

Đông Tây Nam Bắc khắp miền

Ba trăm năm lẻ vững bền núi sông.

Giáo sư Nguyễn Trần Quyên Di

Đại học Long beach


Việt Nam Một Lần Về (Phần A)

“Việt Nam một lần về” do Trần Ngọc Châu (Châu Kool, đoàn 97-Exodus, hiện định cư tại Úc) viết về kỷ niệm chuyến về nước năm 2010 để tham dự Hội Ngộ La San đoàn Exodus tại Nha Trang, gồm 4 phần. 

VIỆT NAM MỘT LẦN VỀ (PHẦN A)
by Trần Ngọc Châu (Châu Kool đoàn 97-Exodus)
Từ thuở ấu thời và lớn lên tôi sống ở Nha Thành. Một tình cảm sâu đậm luôn chan chứa và vì thế bài hồi ký này tuy nhắc đến cuộc về thăm quê hương, nhưng thật ra chỉ cô động ở Nha Trang như là "Trọng Tâm Điểm" của bài viết và những phản ảnh về thành phố biển thân yêu hoàn toàn là cá biệt, nếu có gì sơ sót xin bỏ qua cho ...
Tôi xa quê hương ngót nghét đã tròn 22 Con Giáp. Thời gian trôi nhanh tưởng chừng như một giấc mơ. Nhớ ngày ấy ra đi khi thành phố mới lên đèn. Nha Trang chìm đắm trong màn hơi sương mờ nhạt và nhìn xa xa trông đẹp tựa như tranh khiến lòng tôi phải ngậm ngùi vì không biết bao giờ sẽ gặp lại : "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và con thuyền bé nhỏ đã mang theo 29 sinh mạng ra đi tìm đường Tự Do.  Rồi kể từ đó tâm hồn người lữ thứ hằng khắc khoải chờ ngày về:
Ra đi trời lúc nhá nhem
Nhìn xem thành phố lên đèn rời mau
Trôi theo giòng nước đưa tàu
Con thuyền viễn xứ, chợt đau ... có "NGƯỜI" ...
Rồi thời gian cứ dần trôi. Hình ảnh người thư sinh bé nhỏ của ngày nào đang âm thầm lặng lẽ bên trời Nam. Một lục địa hoang sơ với cỏ cây, núi đồi và sa mạc trùng điệp mãi tận ở Úc Châu. Một trái tim luôn nhạy bén với non sông, đất nước và dân tộc. Rồi duyên kỳ ngộ nào đã đưa đẩy tôi đi tới quyết định lập gia đình.
Và, một lũ TARU đã biệt tăm và phân tán tận bao năm trời nay đã liên lạc được để hẹn ngày cùng trở về :
Bao năm như một con thuyền
Nay về có cả bạn hiền, vợ con ...
Ngồi trong lòng máy bay Air Vietnam với hy vọng nhìn lại những chiếc áo dài của các kiều nữ chiêu đãi viên khả ái, tôi mạnh dạn hỏi làm quen : -"Cô ơi, form này nộp làm sao"! Mặt căm căm không nhìn mà đáp lại thật đanh thép: - ... “Tí nữa sẽ hay”! (rõ người “quốc doanh", thảo nào giữa cặp mông cô nèng có lòi ra một cọng “rau muống”!?).  Và máy bay đã đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Trình diện trước Hải Quan, một tên trẻ măng đáng tuổi cháu, làm việc thì tà tà như người cõi âm thật "đáng ghét"! Hắn tĩnh bơ đòi "thủ tục đầu tiên" ngang tàng hơn ông cố nội: - "Còn trà nước nữa chớ"! Tôi bảo nhà tôi (cốt cho mọi người nghe) : -"Em cho nó 5 đô uống no nê phình bụng cho chết quách, còn nếu muốn "trà ôm" thì tự bỏ tiền túi ra việc gì bắt kẻ khác phải chịu”!!! Trời đất thiên địa ui mấy ông nhà nước ni coi bộ tà tà mà sướng nhỉ !!!
Ông kia ông kĩa ông kìa
Ông làm Nhà Nước rượu bia đầy nhà
Cớ sao ông hỏi "ĐÔ NÀ" ! * (Dollar)
Ông là "Đầy Tớ Dân Ta" * thế à !?
(* Lời Cụ: “Cán Rựa là ‘Ông Cố Nội’ ráng chịu nhục nghe bây”!)
Bên vợ tôi đã thuê cả một chiếc xe van chạy từ Nha Trang vô Tân Sơn Nhất để đón cả gia đình. Thú thật, đây là lần đầu tiên được "ra mắt" nhà nhạc gia. Nghe nói trước đây ruộng vườn bên vợ như "Cò bay thẳng cánh", rồi bị "quy hoạch". Công trình đâu chưa thấy, chỉ biết bị chia năm xẻ bảy phân cho các “Đấng” có quyền! Và giờ đây nhà vợ bị đầy sâu vô tận Núi Sạn, để ngày ngày làm bạn với thiên nhiên và nhìn ngắm bức tượng bị ngã đổ trên đỉnh “Em nằm … đợi anh” mà đồng cảm chung cho số phận …
Ngày đầu tiên tôi được thằng em "cột chèo" đèo Honda qua đường Bạch Đằng ăn tô phở tái. Mùi vị quán này cũng không đến nỗi tệ. Nhưng vị trí nơi này nhắc tôi một kỷ niệm đẹp thời thơ ấu, bởi bên kia đường là ngôi trường tiểu học yêu dấu: trường Giu-Se Nghĩa Thục. Học trường này tôi đã được "câu" đi tu và vị Bề Trên già đã nâng đỡ tôi cho đến khi ngài khuất núi. Nhìn sân trường nay có khác. Cây me tây từng đã bị mưa banh (vì "cố ý") làm rớt trái nay còn đâu !? Từ giã nơi đây mà lòng tôi cứ bồi hồi mãi ...
 Những ngày kế tiếp tôi thường đi tắm biển sáng. Từ nhà vợ, cả gia đình tôi cuốc bộ ra Bãi Dương  (Vĩnh Hải). Nước biển xanh rêu vì chưa có nắng. Bên ngoài trời hơi mát nhưng xuống nước ấm khỏi chê. Đa số giờ này toàn bà già và con ghệ. Tất cả ăn mặc đồ bộ (như pajama) hay quấn người dầy không thấy thịt. Đẹp đẽ cái nỗi gì gìống như những "nùi giẻ" phải không các bạn !!! Chiều chiều hay dẫn con qua bên Nha Trang dạo mát. Từ xa xa thấy nổi lên một công trình. Thật bết bát không ra thể thống chi mô hết. Một khối u to tướng phi nghệ thuật, phản luân lý và ô trọc làm sao! Mọi cửa ngỏ  Nha Thành đều tiến về tụ điểm ấy. Nơi xưa kia có đài liệt sĩ nay cũng bị "liệt" vì ở chỗ mất tôn nghiêm: Tháp Trầm Hương.
 Nha Trang có tháp "VUA TỀ"
Thập phương lũ lượt tiến về TRẦM HƯƠNG
Cao nghêu lộ giữa bên đường
Tựa như "CÁI NỚ" hướng dương lên trời
Làm sao diễn tả thành lời
Từ nay hưng phấn cũng nhờ TRẦM HƯƠNG
Tung tăng cá lội ngược đường
TRẦM HƯƠNG phản chiếu, "dương dương" ... chọc T.r.ờ.i.!!!
Tháp Trầm Hương nằm trên quảng trường rộng và tôi cũng tận dụng tập hai thằng boys chơi thả diều. Diều căng gió làm lũ trẻ thật khoái chí. Bổng nữa chừng thằng lớn đòi thăm "L. B.", tìm khắp chốn chẳng thấy một cầu tiêu. Bảo thằng con ráng ôm bụng mà nín. Chịu hết nổi thôi bảo nó xuống biển làm “ma da” thử tuột quần giả bộ như ngâm đít. Tuyệt chiêu ni vừa tốt cá lại chữa bệnh nhuận trường. Ai biểu "Trầm Hương" ni ô trọc nên người cũng dễ bị lây nhiễm !!!
Rời Trầm Hương tôi lại dẫn mấy sấp nhỏ vô Bốn Mùa. Nhà hàng quốc doanh ni ở vị trí thật ưu đãi nhưng phục vụ người dân lại theo chế độ kiểu "tem phiếu", nghĩa là không cần chất lượng. Đa số mọi người vô đây là để tránh nắng hay có được một khung cảnh hữu tình, vì có người ở lỳ cả ngày với giá chỉ trả cho ly cà phê thì cũng đặng ! Đang phê phê vì gió mát từ biển cả, giờ lại bị quấy rầy bởi thằng em : "Ba ơi, con muốn ị" ! Nhà vệ sinh nam chỉ có một nhà cầu. Gõ cửa kêu cứu thì đang bị "chiếm hữu" bởi một nhân viên phục vụ nữ ! Cô ta bẽn lẽn vội tông ra nói chữa thẹn : "Để cô đi lấy  thêm giấy"! May mà cũng nhờ có cô ta, không thì biết lấy cái chi đây mà ... chùi !!!
 "Mái nhà xưa" yêu dấu của ba mạ tôi ở bên chợ Xóm Mới. Nơi đã hằng ấp ủ tất cả mọi thành viên trong gia đình. Và nhất là đã chứng kiến ngày tôi từ giã gia đình để đi tu. Sau giải phóng nhà bị tịch thu vì diện Sĩ Quan Ngụy. Một sĩ quan cấp tá VC được phân bổ tới nhưng "chê": "Nhà thiếu tá Ngụy mà như thế lày à" ! Tội nghiệp cho ba tôi là thế đấy. Suốt một đời ba đã thanh liêm cần kiệm để cho gia đình được tiếng thơm mà nào được thương đoái ! Nhìn nơi đây nay đã có chủ mới làm sao tôi không khỏi ngậm ngùi ... Một cảm nghĩ làm cách mạng VN thật sướng nhỉ, nếu thất bại thì làm giặc hay ngụy (nhưng oai), còn thành công thì trở thành “hảo hán“!
Rời ngôi nhà yêu dấu ấy tôi đi thăm căn nhà thuê bên Chợ Phường Củi. Sau biến cố bị tịch biên "mái nhà xưa" yêu dấu trên. Cả gia đình tôi bị đày lên Vùng Kinh Tế Mới. Sau trốn về trùng với dịp Ba được thả khỏi Trại Tù Cải Tạo. Cả gia đình chạy chọt đi thuê căn nhà khác và đã ở trọn nơi đây cho đến khi tất cả được đoàn tụ ở Úc.  Nhà cửa nơi đây giờ thật chen chúc. Tôi đã không nhận diện được ngôi nhà ấy. Hàng xóm láng giềng giờ cũng thay đổi hẳn. Nhiều kẻ khuất núi hay thế hệ tương lai nay đã lớn. Và hình như người Miền Bắc vô chiếm hết trọi trơn còn gì ...
Thăm cộng đoàn Vĩnh-Thọ là nơi tôi ở cho tới khi đi vượt biên. Nhìn quanh quẩn sao không thấy. Ở  trên triền đồi cao là Đại Học Hải Sản, nơi trước đây là Đồi La-San bị Nhà Nước chiếm hữu vẫn còn đó. Không xa xa có đại học mang tên anh thợ đóng tàu Ba-Xoong trông thật dị hợm ... Và toàn khu vực nhà ông Chính "lò heo" nay đã bị giải tỏa để làm cầu Trần Phú xuyên tới tận biển Nha Trang. Đồi núi chung quanh thì bị “tùng xẻo”. Nét thiên nhiên, hài hòa và thơ mộng ngày nào nay đã không còn. Mà thay vào những nhà lầu san sát, cùng biết bao cửa hàng ăn uống mọc lên như nấm. Mùi thịt nướng bay thoảng trong không khí như lúc nào cũng chực xông lên tận mũi. Khách hàng ngồi đông như kiến, xếp lớp trong lớp ngoài nghe sao rộn rả. Tiền lương công nhân trung bình vỏn vẹn 30,000 Đ. VN/Ngày, thử hỏi thiên hạ lúc nào cũng nhậu nhẹt sáng tối hay bất tận thiên thu mà sao không ảnh hưởng đến nồi cơm của một bày “sấp nhỏ”. Một dấu hỏi to tướng: dân tộc tôi bây giờ “Sống chỉ biết ăn” thôi sao!
Người sao đông quá là đông
Ngựa xe như nước lòng vòng bốn bên
Đua nhau hàng quán nổi lên
Quanh năm chè chén như quên sự đời ...
 Đường phố Nha Trang lúc nào cũng đông đúc. Bụi bậm tung bay đầy nghịt trời. Tối nằm thở hắt ra hai "cục đất". Thử túm lại, mang dzìa có cái gì là "cục đất" của quê hương ! Thật sung sướng muôn vàn nếu được tắm. Không còn rít rát khó chịu gì bởi bụi trần của quê tôi. Chính vì thế không gì trong lành ngoài biển cả. Biển Nha Trang vẫn là nơi đầy lý tưởng. Bãi cát bây giờ tuy không trắng và mịn như xưa nữa nhưng nước vẫn ấm và không khí trong lành thật quyến rũ như dạo nào. Nhìn xa xa có VINPEARL đèn đuốc thật sáng rực. Vé vô cửa vào khu giải trí này ngót nghét cũng 320,000 Đ VN/Người lớn. Vị chi mỗi người dân phải nhịn ăn ít nhất phải hơn 10 ngày ròng mới đủ mua tiền vé để qua đây tha hồ mà thưởng lãm ! Có nhạc nước cũng vĩ đại và thường là nơi tiếp rước những hoa hậu trên thế giới. Và lần ni sắp tổ chức thi Hoa Hậu gốc Mít đến từ khắp Năm Châu. Vé VIP để ngồi gần ngắm mấy em ăn bận Bikini ni cũng tròm trèm 2,000,000 Đ.VN/Người cũng rẻ chán !!!
Nghe thiên hạ quảng cáo ra đảo ăn cá tươi đang còn sống. Cũng thuê bao tàu nhưng chẳng lẽ ra ngoài nớ chỉ có ăn. Thôi thì trên đường ra Làng Chài thì cũng ghé thăm hồ cá Trí Nguyên. Vé vô cửa, tiền cà phê thuốc lá, chụp dăm ba bô hình để còn có cái mà xi xô với bà con. Ra tới Làng Chài lựa cá tươi rồi cân ký. Rồi kéo phà vô Nhà Hàng cho họ nấu nướng. Nơi khỉ ho cò gáy một giọt nước được tính bằng vàng thử hỏi họ rửa ráy cách mô để nấu cho "ra trò" một bữa ! Đồ ăn mang ra rồi thấy thiếu thiếu cái mình con cá hay vài con ghẹ chạy lạc đi mô ! Một ký tôm hùm trong bờ khoảng 400,000 Đ/Kg, mà ngoài ni ngót nghét 1,100,000 Đ/Kg chưa kể mọi chi tiêu có liên quan để cho ra được một bữa. Thôi thì khuyên “mấy bác” có muốn ăn cá tươi thì lựa trong bờ cũng nhiều vô khối,  còn muốn ra đảo thì vứ việc vui chơi, nhưng chớ có động tới … cá!
Chuyện trong nhà ngoài phố kể hoài không hết. Chuyện trước mắt là lo giải quyết làm sao cho hai thằng boys thích nghi được với thủy thổ. Nhìn chân tay chúng nó ghẻ lở thấy mà tội nghiệp. Tội thằng anh tắm biển bị sứa quất đến lòi thịt. Còn thằng em bị muỗi cắn lên cơn sốt như động kinh. Trong cái vui cũng xen lẫn cái buồn. Mục đích chính được về thăm quê hương, gia đình và hội ngộ với EXODUS là quý. Giờ xin từ giã lên đường vào Sài Gòn để chuẩn bị về Úc.
Tận dụng hai ngày còn lại cuối cùng để thăm Sài Gòn. Lần đầu tiên đi xe Bus có giường nằm cũng thấy khoái. Sài Gòn bay giờ quá xô bồ. Đường xá lúc nào cũng kẹt xe. Phần vì dân chúng quá ích kỷ ít tôn trọng luật giao thông, nhưng quan trọng chính là sức quá tải của một thành phố phải cưu mang quá nhiều dân !!! Thăm Đầm Sen thật vĩ đại giữa lòng thành phố mà không bị ảnh hưởng bởi tiếng động ồn ào chung quanh. Tiền vô cửa tuy không đắt nhưng liệu coi chừng vì vé các trò chơi thật choáng váng. Nếu tận dụng chỉ vô đây mà thưởng lãm không thôi thì cũng đáng đồng tiền bát gạo. Nhà hàng quốc doanh ở đây cũng "độc tôn" nên phục vụ quá bết bát và kém phẩm chất, thật đáng tủi hổ. Tốt nhất vào đây nên mang đồ ăn theo !!!
 Còn một ngày cuối cùng định đi Suối-Tiên Thủ-đức nhưng sợ trở ngại tối phải ra phi trường. Cả gia đình làm một vòng trong các công viên nhưng hãi quá vì ghế đá trông ghê tởm làm sao ! Rủ nhau đi uống sinh tố và ăn trưa ở CƠM NIÊU SÀI GÒN trên đường Tú Xương. Nhà hàng biểu diễn đập "nồi đất" nhưng bị "bể dĩa" hoài có lẽ các "performers" chưa chuyên nghiệp. Thức ăn và cách phục vụ ở đây thật số dzách. Một kỷ niệm sâu sắc khó quên ở nhà hàng này là đang khi tôi đưa thằng con út sắp hàng chờ đi toilet, một nhân viên nữ chợt ngang qua thấy và xin tình nguyện dắt cháu qua bên toilet nữ. Cô đã lo từ A tới Z xong đem trả lại cho cha mà không hề nghĩ tới chuyện thù lao. Thật là tấm gương "vàng" hiếm có ở VN. Xin trân trọng cám ơn cô giúp việc nhà hàng NIÊU ...
Rời Việt Nam mang theo nhiều kỷ niệm khó quên. Bao nhiêu nỗi nhớ nhung đã được khỏa lấp. Xin hẹn lần tới để đi thăm đất nước VN từ Nam chí Bắc. Dầu sao trên đất khách quê người tôi vẫn luôn hướng lòng về đất nước. Xin hẹn lần tới sẽ trở về, không xa ...

Thân mến,
Châu Kool (Group Exodus 97)







Rau Muống (Bài của BS Nguyễn Xuân Quang)

Email của Ngoc Ha (DoiLasan6070) tựa đề Luận về Rau Muống, mượn bài của BS Nguyễn Xuân Quang để tặng Fr.Vital  và  ông cụ thân sinh để nhớ những năm tháng trồng rau muống ở Hàng Xanh SG (75-82)."Cua Phụng Pháp, Rau Muống Hàng Xanh"
Xin phép tác giả (Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang - bacsinguyenxuanquang.wordpress.com), chúng tôi đăng lại bài "Rau Muống: Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ ao rau muống, nhớ cà dầm tương" để đồng cảm với Ngoc Ha (Fr. Bắc Bosco) và Fr.Vital ...nhớ những năm tháng trồng rau muống ở Hàng Xanh SG (75-82)."Cua Phụng Pháp, Rau Muống Hàng Xanh"

https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2014/02/21/rau-muong-anh-di-anh-nho-qu-nh-nho-ao-rau-muong-nho-c-dam-tuong/
         
              Rau muống là một thứ rau quốc hồn quốc túy của đại tộc Bách Việt. Rau muống là hồn quê, hồn nước của dân Việt. Rau muống là cây rau biểu tượng cho dân tộc Việt, nói theo chữ Hán thì rau muống là “quốc thái” của chúng ta (quốc thái cũng có một nghĩa theo quốc thái dân an). Dù có đi đâu chăng nữa, dù có đi khắp năm châu bốn biển, người Việt cũng vẫn nhớ vẫn thèm rau muống:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ ao rau muống, nhớ cà dầm tương.

Rau muống mọc ở vùng sông nước nên là thứ rau căn bản của đại tộc Việt, của Bách Việt sống ở vùng sông nước, là rau của Lạc Việt, của Việt Ruộng Nước, của Việt dòng Mặt trời nước Lạc Long Quân. Lê Quí Đôn trong Vân Đài loại ngữ có cho biết: “Sách Thảo mộc trạng nói: Úng thái (rau muống) tính lạnh vị ngọt, người Nam lấy cỏ, rau làm bè thưa để lỗ nhỏ, thả trên mặt nước rồi trồng úng thái lên trên bè, bè nổi lênh đênh như bèo… Ấy là một thứ rau lạ của phương Nam”.
Sách Quảng Đông tân ngữ chép:
“Ở Quảng châu, cứ 10 khu hồ thì ba khu thả cá, 3 khu thả sen, súng, ấu; 4 khu làm ruộng trồng úng thái làm bè thả xuống nước. Bè theo nước mà lên xuống, gọi là phù điền (ruộng nổi). Rau đó tục gọi là rau muống (mộng thái). Rau muống giải các thứ độc, nên cả nước, nhà nào cũng trồng để ăn” (1).
TẠI SAO GỌI LÀ RAU MUỐNG?
Khuất Nguyên (340- 277 Trước Công nguyên), một đại công thần nước Sở gọi rau muống là “Túc Mãng”. Sở là một nước thuộc đại tộc Việt. Lúc Khuất Nguyên bị biếm chức vì bọn nịnh thần, ông bỏ nước Sở về ở vùng Động Đình Hồ, cái nôi của Đại Tộc Việt. Ông thu thập tất cả các bài phong dao, kể cả các bài dân ca, hát ru, hát chầu văn, hát hò, hát chèo đò… ở vùng Động Đình hồ rồi san định lại thành Sở Từ Ca và Trường Ca Ly tao. Rau muống “túc mãng” đã được Khuất Nguyên nhắc tới trong trường ca Ly Tao:
Cốt dư nhược tương bất cập hề,
Khủng niên tuế chi bất ngô dữ.
Chiêu khiến phê chi mộc lan hề,
Tịch Lãm châu chi Túc mãng.
và sau đây là bài dịch của Vũ Khánh:
Ta như kẻ trên đường hoảng hốt,
Sợ tháng năm hun hút mau trôi.
Mộc Lan sớm cắt trên đồi,
Chiều tà Túc mãng hái nơi cạnh dòng.
Trong chuyến đi thăm Động Đình Hồ, bữa ăn trưa ở Nhạc Dương, chúng tôi cũng được ăn thứ rau muống mọc ở hồ Động Đình, một thứ rau muống có từ huyển sử Việt (xem Hồ Động Đình và Bách Việt, bacsinguyenxuanquang.wordpress.com).
Rau muống cũng đã được Nguyễn Trãi, một vị công thần khai quốc của chúng ta nhắc tới trong bài “Gởi Bạn” tức “Ký Hữu” trong tập Ức Trai thi tập như sau:
Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đản tồn không tự tín
Nhất bàn như cố diệc tham liên.
Quang âm thúc hốt thỉ nan tái
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc tọa vô chiên.
Học giả Đào Duy Anh đã dịch như sau:
Bình sinh vất vả ngán đường đời,
Muôn việc đành nên phó mặc trời.
Tấc lưỡi hãy còn, ăn nói được,
Chiếc thân vẫn khó, xót thương thôi!
Bóng xuân thấm thoát thì khôn kéo,
Quán khách lạnh lùng đêm quá dài.
Đọc sách mười năm mà kiết xác,
Ăn tràn rau muống, chẳng chiên ngồi.
Chiên là chăn, đệm (2). Chú ý ở đây Nguyễn Trãi gọi rau muống là mục túc thay vì túc mãng.
Như thế rau muống được gọi là:
mộng thái như đã thấy ở trên người Quảng châu gọi rau muống là mộng thái. Theo m=b như mồi hôi = bồ hôi, ta có mộng = bộng và theo biến âm th = c (như má thóp = má cóp, Mường ngữ thóp mỡ = tóp mỡ = cóp mỡ, thầm lặng = câm lặng), ta có thái = cải. Mộng thái có nghĩa là cải bộng, cải rỗng. Tên này cùng nghĩa với tên úng thái, ông xôi cũng có nghĩa là cải ống ( xôi = côi = cải và úng = ống) và tên không tâm thái là cải có phần tim ruột trống không tức cải rỗng.
-rau “túc mãng” như Khuất Nguyên đã gọi.
-và mục túc như Nguyễn Trãi đã dùng.
Nên nhớ là người Trung Hoa ở phương Bắc đất khô và lạnh không có rau muống như trên đã thấy Sách Thảo Mộc trạng đã nói rau muống “là một thứ rau lạ của phương Nam” vì thế cho nên các tên mộng thái, úng thái, ông xôi, không tâm thái, túc mãng, mục túc đều là những tên phiên âm dịch nghĩa từ tiếng Nôm Bách Việt .
Rau túc mãng, rau mục túc nghĩa là gì?
Tham khảo qua thư riêng, nhà nghiên cứu chữ Nôm Bách Việt Đỗ Thành cho biết:
Rau muống là rau “mãnh” là rau sống mạnh/sức sống mãnh liệt mà thành tên: ngắt cọng không có rễ trồng vẫn được, có thể sống trên bờ đất khô, đất ẩm và dưới nước sông / hồ / ao/ lu/ chậu v v … và vì rau rỗng ruột cho nên gọi là ống; phát âm ống được giữ nguyên để dùng cho cả vùng Hoa Nam từ Trường Giang trở xuống hướng nam để gọi tên cho loại rau nầy, Trung Văn ngày nay vẫn gọi rau nầy 嗡菜-Ống thái, những người không biết thì dịch là ung thái
-tiếng Quảng Đông mới đọc chữ này là ung/dung/dúng-
.
-tiếng Bắc Kinh củng đọc giống như Quảng Đông.
-tiếng Triều Châu đọc trại âm trở thành Én chạy (ống thái); ở miền tây Việt Nam có câu “chờ anh thì em vẫn chờ, chờ cho én chạy(sậy) lên bờ nở hoa”.
Phía Bắc của Trung Quốc không trồng được rau muống và những người không hiểu thì dùng chữ mới gọi là
䔨菜-ung thái, Nam Kinh và nam Trường Giang nói chung thì vẫn viết là 嗡菜 Ông thái và lại bị VN dịch là Ung thái!
Rau muống luôn mọc thành bè nổi lềnh bềnh, mạng lưới của rau là đặc tính để dân gian gọi là rau “mạng”, mạng-
theo Quảng Đông đọc là ” mọn”, Triều Châu đọc là “màn”, Bắc Kinh đọc là “quàn”; Đường âm/Hán Việt đọc là “võng-“; rau mạnh-mãnh hay võng hay là ống/ón lai với âm Mọn/món của Quảng Đông thành ra rau “muống”; muống hay “muộn” tính ra là đồng âm …khi người con gái gốc Hoa Nam ở miền tây Việt Nam trách chàng lâu quá/muộn mà chưa hỏi cưới thì mượn rau muống/muộn để nói … quá lâu (chờ rau muống dưới nước lên bờ nở hoa).
Túc mãng-宿莾 chưa bao giờ có nghĩa là rau muống; chẳng lẽ Khuất Nguyên viết trong thơ tối thì đi hái rau muống? Và tại sao buổi tối mới hái rau muống? Cả tỉ người Trung Quốc ngày nay không ai giải nghĩa Túc mãng là rau muống trong Ly Tao của Khuất Nguyên, họ giải thích khác và vẫn đi vào bế tắc, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, ông nói gà bà nói vịt; nói chung là chưa ai hiểu đúng hết thơ của Khuất Nguyên và riêng kết luận Túc mãng là rau muống thì sẽ có hơn 1 tỉ người không hiểu nổi.
Cái tên vô tâm thái –
無心菜 xuất hiện tận thời Trụ Vương trong truyện Phong Thần, bởi vì rau ống có cái khoảng giữa tim là trống không, đưa cả rau muống/rau ống vào truyện thì có thể biết tác giả của truyện là cư dân của một dân tộc rành và thường ăn rau muống/ rau ống/ vô tâm thái.

Khuất Nguyên gọi rau muống là Túc Mãng thì không có bằng chứng Túc Mãng là rau muống đã rỏ ràng bằng các tài liệu tham khảo bên Trung Văn, còn Nguyễn Trãi gọi là Mục Túc thì có gì làm bằng chứng Mục Túc có nghĩa là rau muống?
Ngày nay gọi là ung xôi hay mộng thái hay ung thái 雍菜/嗡菜 hoặc én sậy (Triều Châu) đều là trại âm của chử ống.
-Chữ ống-
được ghép bởi khẩu- là hình ống/rổng + với chữ ông- để mượn âm “ông”, ống/ông bị biến âm ung, en, én , dung, dung.
– chữ mãnh/mạnh/mạng thì biến thành mọn (Quảng Đông) và mộng thái! Chỉ là mạnh thành ra mọn rồi món mới ra âm “muống”; muống lại bị thành muộn cho nên mới xảy ra chuyện cô gái Triều Châu ở miền Tây Việt Nam vừa gọi Én sậy/(chạy) là rau muống/muộn (muộn: trể, lâu…) để trách “chờ anh thì em vẫn chờ, chờ cho Én chạy lên bờ nở hoa”.
Cái gốc vẫn là rau ống- và đây là điều thú vị để thấy từ thời nhà Thương cho đến nay thì từ Trường Giang-長江 trở xuống phía Nam đều là văn hóa và phát âm của Việt tộc/tiếng Việt là chuẩn là gốc” (Đỗ Thành).
Về phía Tây phương, người Pháp, ngoài tên gọi theo thực vật là “liseron d’eau”, còn có một tên khác văn vẻ hơn gọi rau muống là “Belle de jour”, (Người đẹp ban ngày) hay là “Nhật Quang Kiều nữ” (2). Anh Mỹ gọi dây bìm bìm là “morning glory” (“buổi sáng huy hoàng”) và rau muống là “water morning glory” (rau “buổi sáng huy hoàng mọc dưới nước”).
Tôi còn thắc mắc là rau “Túc Mãng” của Khuất Nguyên và rau “Mục Túc” của Nguyễn Trãi trong văn chương bác học có nghĩa gì liên hệ với văn hoá của chủng Người Mặt Trời Bách Việt có cốt lõi là nòng nọc, âm dương Chim-Rắn Tiên Rồng theo Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo hay không?
Không biết rau Belle de Jour Nhật Quang Kiều Nữ và ‘water morning glory’ gọi rau muống là thứ rau tiêu biểu của Bách Việt có liên hệ gì với Thái Dương Thần Nữ Âu Cơ, Mẹ Tổ Mặt Trời Hừng Rạng của đại tộc Người Mặt Trời Rạng Ngời Bách Việt hay không?
TỔNG QUÁT VỀ RAU MUỐNG
-Tên thực vật học: Ipomoea aquatica Forsk.
-Tên Việt: muống.
-Tên Mường: muông.
-Tên Trung Quốc: Úng Thái, Quảng Đông đọc là ông xôi, Quảng châu là mộng thái…
-Tên Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân: Kangkung.
-Tên Thái, Lào: Pak bung (đọc là pạc bung).
-Tên Campuchia: Tluol, tra kuôn.
-Tên Nhật: horenso.
-Tên Guam: kankan hoặc cancon, kangkung.
-Tên Paulau (một quốc gia thuộc Tiểu đảo, Micronesia): kangum, kangkum.
-Tên Pháp: liseron d’eau, Belle de jour.
-Tên Mỹ: water morning glory.
Rau muống mọc ở vòng đai nhiệt đới. Rau muống trồng hay mọc dại ở ao, đầm, đìa, sông, hồ, bưng, bàu:
Còn trời, còn nước, còn mây,
Còn ao rau muống, còn đầy chum tương.
Rau muống thuộc họ dây bò, cuộn (convolvulaceae), bà con với khoai lang (Ipomoea batatas), thuộc họ dây bìm bìm. Trước đây bìm bìm có tên thực vật học là Ipomoea bimbim, từ bimbim này lấy theo tên Việt Nam bìm bìm…Tại Hoa Kỳ và nhiều nơi không có ao hồ, rau muống trồng bằng hạt trong bồn đất sũng nước. Loại thông thường dùng làm rau ăn cọng xanh, nhưng cũng có loại cọng tim tím gọi là rau muống tía. Cọng rau muống rỗng, láng, mọng, rễ lan, lá có đáy cụt tròn bầu, hình trái tim, hình mũi tên, hình mũi mác, thùy lá nở rộng hay thon hẹp, cuống hoa có một hay vài hoa hình phễu dài từ 3-5cm, màu trắng hoặc màu hoa cà (nửa hồng nửa lam), tím nhiều ở giữa hoa, cánh ngoài láng, thuôn hình noãn.
Hoa có cả nhụy đực, nhụy cái, bầu noãn có hai bao noãn hình quả trứng dài 8-10mm, hột có lông hay không.
Ở Việt Nam rau muống trồng từ đầu mùa xuân:
Cuối thu trồng cải, trồng cần,
Ăn rong sáu tháng cuối xuân thời tàn,
Bấy giờ rau muống đã lan,
Lại ăn cho đến thu tàn thời thôi.
Rau muống tàn vào cuối thu cho nên rau muống tháng chín già, cỗi rất xơ dai:
Rau muống tháng chín,
Nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn.
Rau muống ngon tùy từng vùng, rau muống ngon nhất ở vùng Hiên Ngang:
Cua Phụng Pháp,
Rau muống Hiên Ngang.
Mua rau muống, muốn chọn thứ rau ngon phải xem xét lá rau:
Mua bầu xem cuống,
Mua muống xem lá,
Mua cá xem mang.
RAU MUỐNG LÀM THỨC ĂN
Rau muống là một loại rau căn bản của dân dã Việt Nam. Rau muống có thể đã đóng góp vào việc nuôi dưỡng, sinh tồn của dân tộc Việt Nam. Rau muống được coi như là một món ăn thanh đạm. Như trên ta thấy những vị công thần như Khuất Nguyên, Nguyễn Trãi khi bị thất sủng về vườn sống cuộc đời thanh đạm nơi đồng nội ngày ngày ăn rau muống nhưng tâm hồn giữ được thanh thơi, liêm khiết. Người con gái quê Việt, tuy nghèo sống nhờ rau muống tương cà nhưng mà sống vui vầy trong hạnh phúc đạo lý gia đình và tự lập:
Nhà em có vại cà đầy,
Có ao rau muống có đầy chum tương,
Dầu không mỹ vị cao lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em,
Một nhà vui vẻ êm đềm,
Đói no tùy cảnh, không thèm lụy ai.
Tình yêu và hạnh phúc vẫn còn mãi mãi miễn là có được một ao rau muống, có đầy chum tương:
Còn trời, còn đó, còn đây,
Còn ao rau muống còn đầy chum tương.
Rau muống có thể dùng nấu ăn bằng bất cứ cách nào cũng được: ăn sống, luộc, nấu canh, xào, làm nộm, trộn salad… Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư viết: “Rau muống mọc ở các ao hồ, là một thứ rau ta rất hay ăn. Người ta hái và bó nhiều ngọn với nhau thành từng mớ, các ngọn rau có lá, người ta nhặt những lá sâu lá úa và bỏ những cuống già đi, rồi đem luộc hoặc xào, hoặc nấu canh. Xào thì phải có mỡ và thường cho thêm tỏi. Nấu canh thì thường nấu với tương, nấu với cua đồng, tôm he, sườn lợn. Rau muống luộc mà chấm với tương ăn cũng ngon, còn nước luộc rau thì đem chan vào cơm mà ăn với cà cũng thú vị” (3). Món giản tiện nhất là rau muống luộc ăn với cà pháo muối chua.
Nhà em có vại cà đầy,
Có ao rau muống, có đầy chum tương.
Nước rau muống luộc có thể để vậy vắt chanh chan cơm hay đánh dấm với cà chua, hành, tỏi… Rau muống xào tỏi phải kèm vài ngọn kinh giới (4). Rau muống nấu canh, phải kể thêm là nhà nghèo thường nấu suông nghĩa là không có gì cả ngoài mắm muối còn nhà khá giả có thể nấu canh rau muống với trứng cáy, cua đồng, tôm, sườn heo… Rau muống nấu canh muốn cho ngọt phải ngắt những ngọn non như thấy qua câu ca dao sau đây:
Ốc bực mình ốc,
Ốc vặn ốc vẹo,
Bèo bực mình bèo,
Lênh đênh mặt nước,
Nước bực mình nước,
Tát cạn cấy khoai.
Khoai bực mình khoai,
Đào lên cấy muống,
Muống bực mình muống,
Ngắt ngọn nấu canh,
Anh bực mình anh,
Vợ con chưa có,
Đêm nằm vò võ,
Một xó giường không,
Hỏi giường có bực mình không hỡi giường?
Rau muống nấu canh tôm, ăn vào mát lòng mát dạ, con gái chưa chồng ăn vào dậy tình:
Rau muống mẹ nấu canh tôm,
Con ăn mát dạ đêm hôm đòi chồng.
Rau muống ăn sống thường là rau muống chẻ, nhiều khi vội, chỉ chẻ làm tám, làm tư hay để nguyên cả cọng. Ăn bún chả Hà Nội hay bún riêu phải có rau muống chẻ nhỏ ngâm nước, xoắn tít lại, ăn nhai ròn tan và mát miệng mới đạt tới được mức tuyệt đỉnh của nghệ thuật ăn uống. Rau muống làm nộm với giá luộc, thịt ba chỉ thái nhỏ, mè, chanh, rau kinh giới và nhất là có thêm rau rút. Salad rau muống thường trộn dầu, dấm, thịt bò… Người Thái Lan có món rau muống xào đặc biệt. Rau muống xào suông với mắm ruốc, tỏi ớt hay với thịt, cá, mực rất cay. Tác giả đã từng ăn món rau muống xào rất cay tại Chiang Mai, Thái Lan. Một đĩa rau muống xào đếm thấy trên hai mươi trái ớt hiểm. Tính ra cứ một cọng rau muống gần như lại có một quả ớt. Ở đây rau muống xào họ dịch là fried morning glory (rau “rạng sáng” xào). Tại Jakarta, tại City Hotel Cafe cũng có món rau muống xào rất cay gọi là “kangkung hot plate”. Cái cay ở đây có thêm vị safron và những gia vị của “đảo gia vị” (“spicy island”) phảng phất mùi cà-ri. Dân hải đảo Thái Bình Dương nấu canh hay xào rau muống với cá. Đồng bào ở miền Nam ngoài những món thông thường, còn có món cọng rau muống muối dưa ròn tan, ăn hết xẩy. Khi trước, lúc còn làm trưởng chi Y tế Hồng Ngự, Kiến Phong, tác giả được thưởng thức món cọng rau muống muối chua này cho đến nay vẫn còn nhớ và thèm. Rau muống miền Nam, nhất là vùng Đồng Tháp Mười mọc dại thành từng bè nổi trên mặt nước trông mênh mông bát ngát, người ăn không hết, rau muống kéo về cho trâu bò ăn, băm ra nuôi heo và thả xuống những chà cá nuôi cá… Dân quê miền Trung còn ăn rau muống sống nguyên cọng với cá, thịt cuốn với bánh tráng ăn như ăn gỏi cuốn.
RAU MUỐNG LÀ MỘT VỊ THUỐC THUỘC HỌ ASPIRIN
So sánh cách dùng rau muống để trị bệnh của các quốc gia có rau muống ở Đông Nam Á, Nam Đảo và một phần Ấn Độ, chúng tôi thấy họ dùng rau muống chữa bệnh có những điểm chủ trị giống chúng ta dùng rau muống như một vị thuốc Nam:
– Việt Nam:
Việt Nam dùng rau muống để giải nhiệt, giải độc, trị sốt nóng cao của trẻ em, thông máu, đau bụng máu, đau bụng kinh…
– Nam Dương:
Dùng rau muống làm êm dịu dây thần kinh, an thần, trị bứt rứt, mất ngủ và nhức đầu.
– Campuchia:
Dùng rau muống trị sốt mê sảng.
Nhìn chung, chúng ta thấy rau muống có những chủ trị chính là trị sốt nóng, đau nhức, trị sưng, thông máu, êm dịu thần kinh. Rau muống rõ ràng có tính chất của thuốc Aspirin. Vì những lý do này Nhật Bản trước đây đã bảo trợ cho y giới Nam Dương nghiên cứu cây thuốc dân tộc rau muống với các chất gây ra đau nhức prostaglandins. Kết quả thử nghiệm công bố cho thấy rau muống có chứa những hoạt chất ngăn chăn sự tổng hợp prostaglandins giống hệt như họ thuốc Aspirin (5-16). RAU MUỐNG QUẢ THẬT LÀ MỘT LIỀU THUỐC ASPIRIN. Ta đã biết Aspirin là một quí dược trị và ngừa được không biết bao nhiêu là bệnh hiểm nghèo như đau nhức, thấp khớp, sốt nóng, sưng…, ngừa bệnh mạch vòng tim, ngừa cơn đứng tim, ngừa đứt mạch máu não, giảm nguy cơ ung thư ruột già… Như thế rau muống cũng là một quí dược như aspirin. Vì vậy, cũng cần lưu tâm là những người có khuynh hướng bị loãng máu không nên ăn rau muống vài ba ngày trước ngày mổ xẻ đã định để tránh bị chẩy máu trong và sau khi mổ.
Dân Việt Nam nổi tiếng về làm việc cần mẫn, tháo vát và thông minh. Đào Duy Anh, trong Việt Nam Văn Hóa Sử Cương đã viết: “Sức làm việc khó nhọc, nhất là người miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp”. Dân miền Bắc được mệnh danh là Bắc kỳ rau muống. Phải chăng rau muống là một liều thuốc loại aspirine đã giúp dân Việt làm việc nặng nhọc mà không thấy đau nhức mình mẩy và tinh thần không mỏi mệt.
Tóm lại rau muống là một “biệt thái”, một sắc thái đặc biệt, một thứ rau đặc biệt của Đại tộc Việt, của Lạc Việt sông nước, của Việt Mặt Trời Nước Lạc Long Quân. Rau muống thuộc một nền văn minh và văn hóa riêng biệt Động Đình Hồ trồng lúa nước, giỏi về sông nước, đánh cá, thủy vận, ăn cá mắm, nước mắm, ăn món rau chính mọc chỗ có nước là rau muống… Rau muống nuôi dưỡng tầng lớp nông dân lao động thanh bần của tộc Việt, lớp người áo vải rau muống tương cà này là thành phần nồng cốt đã dựng nước, giữ nước từ mấy ngàn năm nay.
Ngày nay người Việt có mặt khắp năm châu bốn biển, rau muống cũng vươn mọc dài ra khắp năm châu bốn biển. Chỗ nào có người Việt sống chỗ đó có rau muống mọc xanh tươi hồn Việt.
Rau muống hồn xanh Đại tộc Việt.
Cước Chú:
*Đỗ Thành: Thư riêng.
(1) Lê Quí Đôn, Vân Đài loại ngữ, tr. 491.
(2) Thái Văn Kiểm, Thế Giới Rau muống, YHTT số 16, tháng 7, 1996, tr.7-8.
(3) Quốc Văn Giáo Khoa Thư Lớp Dự Bị, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thân.
(4) Lê Văn Siêu, Văn Minh Việt Nam.
(5) Roi,J. 1946, Atlas Des Plantes Chinoises, Paris p.409.
(6) Stuart G. A. 1911, Chinese Materia Medica, Vegetable Kingdom, Shanghai, p.220.
(7) Dragendorff G. 1898: Die Heilpflanzen der verschiedenen Volker und Zeiten, Stuttgart, p.555.
(8) Hu C.Y.,1959, Traditional Chinese Remedy in prevention and treatment of diphtheria, Kiangsi J. Traditional Chinese Med., p.148.
(9) How et al, 1956, Flora of Canton, p. 587.
(10) Crevost & Pételot A. 1929, Catalogue Des Produits De L’Indochine. Plantes Medicales. 37:535. Pételot A. 1952, Les Plantes Medicales Du Cambodge, Du Laos et Du Vietnam 2: 183.
(11) Menaut B., 1929, Matière Medicale Cambodgienne, Bull. Écon. Indochine, 32: 465,483.
(12) Garcia, fide Quisumbing, Medicinal Plants of Philippine, p.758.
(13) The Wealth Of India, vol. 5:238.
(14) Weck W. 1938, “Taru Premana”, Die Balische Pharmakopoe.. Nat. Tijdschr. Ned.-Indie 98: 276.
(15) Nguyễn Văn Minh Dược Tính Chỉ Nam tr.1559-1560)
(16) Lm Vũ Đình Trác, 100 Cây Thuốc Vạn Linh (Y Học Việt Nam Hội Hữu xuất bản 1986. (tr.23).
(Trích trong Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt có bổ túc thêm).
Trong bài có phần bổ sung:
Xin chao Bac Sy.
Rat vui lai duoc doc nhung bai viet rat hay cua Bac Sy.
Xin co mot gop y la trong tieng Nhat, nguoi ta thuong dung Kushinsai(空芯菜) de chi rau muong, chu khong phai Horenso( la mot loai rau khac hoan toan).


Quang Nguyen · · Reply
Cám ơn anh rất nhiều.
Kushinsai chính là Không Tâm Thái, một tên gọi rau muống theo Hán ngữ.
Tên horenso tôi lấy từ tài liệu thuốc cây nhà lá vườn, hy vọng có người biết rõ nó là loại rau gì nếu không phải là rau muống.
Rất biết ơn anh đã bổ túc.
Nguyễn Xuân Quang
bacsinguyenxuanquang.wordpress.com