Xã hội hóa là quá trình con người liên tục tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là một thành viên. Khái niệm xã hội hóa tường được dùng để chỉ sự quan tâm cũng như đóng góp của toàn xã hội vào một lãnh vực nào đó.
VIỆC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỂ CHO TÔN GIÁO
THAM GIA VIỆC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
THAM GIA VIỆC XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC
1/ Giáo Dục và Xã Hội Hóa Giáo Dục
Để trình bày việc xã hội hóa giáo dục, tôi xin bắt đầu với những từ ngữ được bàn đến trong tham luận này đó là “giáo dục” và “xã hội hóa giáo dục”
1.1/ Thế Nào Là Giáo Dục?
(1) Theo ngôn ngữ La tinh, thì E-ducation gồm có “E” hay là “Ex” có nghĩa là ra khỏi, lôi ra. “ducatio” (ducere) có nghĩa là dẫn lối, chỉ vẽ, uốn nắn.
Trong tiếng Việt, từ ngữ Giáo dục có nghĩa là:
- Giáo là chỉ bảo, uốn nắn, biến đổi và làm cho nên hoàn hảo,
- Dục là bản chất hoặc tính khí con người cần được uốn nắn chỉ bảo.
Vậy giáo dục là tiến trình uốn nắn, hướng dẫn và thăng tiến con người toàn diện “như là con người”, khởi từ tình trạng cụ thể, hầu đạt tới mức hoàn hảo của một “nhân linh ư vạn vật”. Giáo dục phải là tiến trình hoàn toàn tự nguyện từ hai phía, nhà giáo dục và người được giáo dục, không hề có áp đặt và cũng không làm thay, nhưng mang tính nhân vị.
(2) Theo Unesco thì giáo dục là tác động giúp cho con người không sống theo “con người thứ nhất có tính tự nhiên” chưa trưởng thành nhân cách, thiếu quân bình trong việc đối nhân xử thế, biết định hướng sử dụng tiềm năng bẩm sinh của mình để phát triển nhân cách trở thành “con người thứ hai”, sống đúng với nhân phẩm, có khả năng sống chung.” [1]
1.2/ Thế Nào Là Xã Hội Hóa Giáo Dục?
Theo NQ 90-CP của Chính Phủ do Thủ tướng ký ngày 21/8/1997, xác định những khía cạnh của xã hội hóa giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội...
Như vậy, xã hội hóa giáo dục gồm 2 thành phần chính:
+ Xây dựng một xã hội học tập trong đó mọi người học tập thường xuyên, học tập suốt đời.
+ Vận động toàn xã hội tham gia đóng góp cho giáo dục.
2/ Những Tham Gia Của Giáo Hội Công Giáo Cho Việc Xã Hội Hóa Giáo Dục Tại Việt Nam Trước Đây
Sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Việt Nam (hiệp ước 05/06/1862), nhà cầm quyền nghĩ đến việc gieo rắc văn hoá Pháp cho người bản xứ, họ đã mở trường dạy tiếng Pháp và tiếng Việt. Đến năm 1866, cả Nam Kỳ có 47 trường và với chừng 1200 học sinh. Các giáo sư trong các trường thời ấy thường là những thông ngôn, không thông thạo gì về sư phạm, nên học sinh tiến bộ rất chậm[2].
Khoảng thời gian ấy, với đề nghị của các Giám mục thừa sai, chính quyền đô hộ Pháp đã mời các dòng tu nam nữ chuyên lo về giáo dục đến phục vụ tại Việt Nam. Dòng nữ tu Thánh Phaolô (Saint Paul) là một trong những dòng tu hiện diện sớm nhất, năm 1860 các nữ tu đến tại Sài Gòn với mục đích giáo dục và chăm sóc bệnh nhân[3]. Dòng La San cũng được mời đến 6 năm sau đó (1866), các trường Dòng được hình thành đế đáp ứng nhu cầu phát triển tri thức. Năm 1924 dòng Đức Bà Truyền Giáo đến tại Phát Diệm[4]. Năm 1928 dòng Nữ Tử Bác Ái đến tại Sài Gòn[5]. Năm 1935 dòng Đức Bà Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh đến Việt Nam và lập nhà ở Đà Lạt[6].
Hiệp định Genève tháng 7.1954, nước Việt Nam tạm thời chia đôi Bắc - Nam, giáo dục Công Giáo ở miền Bắc gần như tê liệt. Còn tại miền Nam, nền giáo dục Công Giáo đã rất phát triển và ổn định.
Khởi đầu thời kỳ này, cùng với việc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được chính thức thành lập ngày 24/11/1960 theo Sắc chỉ Venerabilium Nostrum của Toà Thánh, "một biến cố tác động sâu xa đến [...] Giáo Hội Việt Nam, đó là Công đồng Chung Vatican II (1962-1965) với đường hướng đại kết và mục vụ đã làm cho Giáo Hội Việt Nam, nhất là ở miền Nam, quan tâm nhiều đến vai trò của Giáo Hội trong thế giới ngày nay và thúc đẩy mọi tín hữu tích cực tham gia các hoạt động trong xã hội trần thế." [7]
Thời kỳ này giáo dục Công Giáo đã có một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh từ mẫu giáo đến đại học xứng đáng sánh ngang tầm với các hệ thống giáo dục khác tại nước nhà. Và với chính sách phát triển giáo dục theo xu thế hiện đại của nhà nước Việt Nam Cộng Hoà cho phép tôn giáo mở trường tư ở mọi bậc học, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam đã không ngần ngại dấn thân hơn nữa vào môi trường giáo dục trong mọi lãnh vực. Trên khắp lãnh thổ miền Nam thời bấy giờ, từ làng quê đến thị thành, từ miền Trung vào tới miền Nam, Trường Công Giáo từ mẫu giáo, tiểu học, trung học được thành lập và hoạt động rất hữu hiệu góp phần vào việc giáo dục thanh thiếu niên trở thành những con người nhân bản và hữu ích cho xã hội trên nhiều lĩnh vực sau này. Bảng tổng kết tình hình Giáo Hội Việt Nam vào năm 1962-1963 cho thấy hoạt động của Giáo hội trong lĩnh vực giáo dục, y tế và xã hội rất lớn. Hầu như xứ đạo nào cũng có trường tiểu học và các nơi tập trung đông dân như thị xã, đều có trường trung học [...] Giáo Hội Việt Nam lúc đó có 93 trường trung học với 60.412 học sinh, 1.122 trường tiểu học với 234.749 học sinh, 58 cô nhi viện nuôi 6.616 trẻ, ...”[8]
Hệ thống giáo dục được các Dòng quan tâm đến giáo dục tham gia mở trường học như dòng La San, dòng Đaminh, dòng Tên, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Salesien Don Bosco, dòng Thánh Tâm - Huế, dòng Giuse – Nha Trang, dòng Đồng Công... Những trường Dòng nổi tiếng ở Sài Gòn như La San Taberd, La San Mossard, Vinh Sơn Liêm... Ngoài các trường Dòng, hầu hết các xứ đạo đều có trường tiểu học, ở vùng đông dân cư có trường trung học cơ sở (đệ nhất cấp), trung học phổ thông (đệ nhị cấp). Một vài trường được nhiều người biết đến ở Sài Gòn như trường Nguyễn Bá Tòng (nay là trường Bùi Thị Xuân), trường Lê Bảo Tịnh...[9] Bên cạnh các dòng tu thuộc quyền Giáo Hoàng chuyên lo về giáo dục thì một số dòng Nữ thuộc quyền giáo phận tham gia vào nhiều hình thức giáo dục tại những nơi mà các nữ tu hiện diện, đặc biệt mở ra các ký nhi viện, các trường tiểu – trung học và tham gia dạy học trong các trường của giáo xứ do các linh mục địa phận thành lập[10]. Có thể kể các dòng giáo dục có ảnh hưởng lớn trong xã hội Việt Nam là Dòng Thánh Phaolô[11], Dòng Đức Bà – Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh[12], Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn[13], Dòng Đức Bà Truyền Giáo[14], Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ[15], Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ [16], các dòng Mến Thánh Giá[17], Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm Huế[18], các dòng Đaminh[19].
Tính ra từ năm 1961-1975, Giáo hội Công Giáo miền Nam có 145 trường Trung học với 62.324 học sinh và 1.060 trường tiểu học với 209.283 học sinh (riêng tại giáo phận Sài Gòn có 56 trường trung học với 30.748 học sinh và 338 trường tiểu học với 91.870 học sinh) [20].
Giáo Hội Công Giáo cũng quan tâm đến việc phục vụ giáo dục cho nhiều đối tượng quần chúng bình dân nghèo, những trẻ em khuyết tật, mồ côi, các dân tộc thiểu số..., các trường dạy nghề, trường kỹ thuật chuyên nghiệp - nông lâm, trung tâm khiếm thị khiếm thính, thiểu năng, cô nhi viện, trường học miễn phí cho dân nghèo được mở ra nhiều nơi ngay trong thị thành cũng như những vùng quê nghèo hay nơi các rẻo núi cao, và sử dụng truyền thông để giáo dục quần chúng nghèo. Nhiều trường học và cơ sở giáo dục này đã gặt hái được những thành công đáng kể và đạt sự ngưỡng mộ cũng như lòng tôn trọng và sự yêu mến của phụ huynh, của các cựu học sinh. Các tổ chức của Giáo Hội hàng năm cấp học bổng cho các trẻ em, sinh viên nghèo hiếu học.
Nhằm mục đích phát triển nhân bản và nâng cao văn hoá của thế hệ trẻ, và để mở rộng nền giáo dục đại học trong xã hội Việt Nam, ngõ hầu bắt kịp tiến bộ của xã hội và những đòi hỏi của những nhu cầu thế giới, Giáo Hội Công Giáo cũng quan tâm hơn tới việc thành lập thêm các Đại Học Công Giáo, các cơ sở giáo dục dành cho giới trí thức và sinh viên nghiên cứu và trao đổi như thư viện, trung tâm hướng nghiệp, trung tâm giáo dục, mở các khoá tu nghiệp về sư phạm và tâm lý, phát hành các báo chí và tập san giáo dục.
Viện Đại Học Đà Lạt của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam giai đoạn này hoàn chỉnh về tổ chức, kiến thiết xây dựng những cơ sở ngày càng xứng hợp với tầm vóc của một Viện Đại Học và hướng đến việc mở rộng và hợp tác phát huy tiềm năng của Viện.[21]
Đại Học Thành Nhân cũng được thành lập năm 1970 theo giấy phép số 5808 GD, ngày 03/08/1970 của Bộ Giáo Dục nước Việt Nam Cộng Hoà; cùng thời gian này một nhóm bác sĩ dưới sự đỡ đầu của Dòng Chúa Cứu Thế đã mở ra Đại Học Minh Đức để đào tạo ngành y, trong thời gian ấy thì Giáo Hội Phật Giáo cũng mở ra Đại Học Vạn Hạnh.
Viện Huấn Luyện Nhân Bản và Tôn Giáo nằm trong Phân bộ Khoa Học Giáo Dục thuộc Đại Học Thành Nhân theo văn thơ số 1063/70 của Hồng y Bộ Trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo ký tại Rôma ngày 26/03/1971.
Đại Học La San với giấy phép của Bộ Giáo Dục, được mở ra ngay trong trường Taberd, Sài Gòn với những phân khoa đầu tiên là Dầu Khí, Nông Nghiệp...
Sự tham gia của Giáo Hội Công Giáo vào giáo dục trước đây đã góp phần tích cực vào việc huấn luyện toàn vẹn con người thăng tiến nhân bản và tri thức cho thế hệ tương lai. Bao anh tài đạo đời đã xuất thân từ những mái trường Công Giáo, họ đã góp phần không nhỏ vào việc đem lại sự độc lập cho tổ quốc, và xây dựng và phát triển cho quê hương Việt Nam phồn vinh thịnh vượng, và làm nên một Giáo Hội Việt Nam trưởng thành yêu thương và phục vụ.
Từ sau ngày thống nhất đất nước, tôn giáo gần như bị loại ra khỏi cuộc chơi mang tên “Giáo dục”, mặc dù chính sách xã hội hóa giáo dục được chính phủ đề ra gần 20 năm nay, thế nhưng, tôn giáo có chăng cũng chỉ là sự tham gia của các nữ tu trong việc mở các Nhà Trẻ
3/ Thực Trạng Giáo Dục Hiện Nay
3.1/ Thực Trạng Giáo Dục Của Nước Ta Hiện Nay
Sau ngày thống nhất đất nước, chủ trương quốc hữu hoá giáo dục, nhà nước đã công lập hoá các trường tư từ mẫu giáo đến đại học (riêng tại Sài Gòn có 1158 trường tư chiếm 70% tổng số trường ở Sài Gòn) và thực hiện miễn phí với tất cả học sinh. Nhà nước “xác lập sự lãnh đạo của Đảng ở các trường học”[22], độc quyền về giáo dục, loại bỏ mọi tổ chức giáo dục ra bên lề.
Năm 1979, để tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, nhà nước thực hiện cải cách giáo dục theo 2 vòng: vòng đầu hình thành cơ sở và nội dung của nền giáo dục mới, vòng 2 sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh. Việc cải cách chưa đem lại những hiệu quả giáo dục thiết thực cho xã hội [23].
Năm 1986, với chủ trương kinh tế nhiều thành phần của nhà nước, đã mở ra thời kỳ đổi mới cho giáo dục. Ngành giáo dục đề ra nhiều dự án phát triển giáo dục theo phương thức kinh doanh, tuy vậy còn lúng túng về nội dung, mô hình hệ thống giáo dục, và phương pháp giảng dạy và làm ảnh hưởng đến môi trường sư phạm.[24]
Từ năm học 1996 – 1997 giáo dục phổ thông tái lập bậc tiểu học, bậc trung học cơ sở, và bậc trung học phổ thông. Thử nghiệm một số trường chuyên ban.
Năm 1999, thực hiện chương trình cải cách lần thứ hai, đổi mới nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, nội dung thi cử và các mô hình đào tạo. “Mệnh lệnh từ cuộc sống” của nước nhà đối với nền giáo dục lúc này là cần “Chấn hưng giáo dục”. Nội dung việc chấn hưng giáo dục bao gồm việc chấn hưng về nội dung, phương pháp, cơ sở, phương tiện dạy - học, về nhân sự, việc đào tạo giáo viên và tổ chức thi cử, được bàn thảo rộng rãi và được đăng tải trên báo chí từ tháng 10. 2004 đến nay[25]. Nhiều bậc văn sĩ, giáo sư có tấm lòng với sự nghiệp giáo dục đã lên tiếng, nhưng xem ra nền giáo dục Việt Nam đang rơi vào khủng hoảng trầm trọng và giải pháp cải cách giáo dục đang là vấn đề nhức nhối của xã hội.
3.2/ Vài Nhận Định Về Nguyên Nhân
Xin nêu ra đây hai nhận định, (1) của giáo sự Dương Thiệu Tống, một giáo sư và là nhà nghiên cứu văn hóa uy tín; (2) của các trí thức Công Giáo Tp. HCM mang tên là CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình khi bàn về thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay:
(1) Giáo sư Dương Thiệu Tống nhận xét về thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay như sau:
Về Bậc Phổ Thông
Quan niệm “phổ thông” của ta trong một nửa thế kỷ qua không được soát xét lại xem có còn “phổ thông” nữa không, phù hợp nữa không. Đặc điểm trung học phổ thông xưa cũ là thế nào?
1) Giáo dục từ chương, kinh viện, không thực tiễn, chịu ảnh hưởng của quan niệm “giáo dục tự do” (liberal education), về “con người tự do”[1]. Do vậy không đòi hỏi học sinh tốt nghiệp phổ thông phải có khả năng tham gia bất cứ vào ngành nghề nào, nhà trường không có nhiệm vụ và cũng không có khả năng làm công tác hướng nghiệp cho học sinh.
2) Giáo dục có tính chất “đơn tuyến”, chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức khoa học cơ bản lý thuyết, tách rời với thực tiễn, học sinh cuối cấp chỉ có lối thoát duy nhất là vào đại học.
3) Mang tính “độc quyền” vì đó là con đuờng duy nhất để học sinh tiến xa trong nền học vấn và trong lĩnh vực nghề nghiệp.
4) Chương trình là chương trình cứng rắn hiếm thấy trên thế giới hiện nay, được soạn thảo bởi một nhóm nhỏ giáo viên bộ môn riêng lẽ đã được chỉ định và ban hành từ trên xuống.
Gần đây nước ta cố gắng sửa đổi quan niệm này bằng cách phát triển các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, và đưa kỹ thuật chuyên nghiệp vào chương trình phổ thông theo lối “phân luồng”, nhưng cả hai đều trong “tình trạng bế tắc”. Theo ông, có lẽ do một số nguyên nhân:
1) Quan niệm giáo dục phổ thông là một thứ giáo dục tiền đại học khó có thể dứt bỏ nơi thầy cô cũng như cả nơi phụ huynh.
2) Trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp chất lượng giảng dạy kém, thiếu hụt các giáo viên dạy nghề có khả năng, trang thiết bị cũ kỹ không còn thích hợp, không nắm vững các nhu cầu chuyên biệt của các cơ sở sử dụng nhân lực lao động; học sinh thường được đào tạo và hướng vào một số lĩnh vực nghề, do vậy những nghề này cung vượt quá cầu, học sinh được huấn luyện nghề ra trường kiến thức và kỹ năng thường bị lạc hậu so với sự phát triển công nghệ.
3) Các trường trung học phổ thông phân luồng theo các ngành khoa học cơ bản để tiến lên đại học hoặc nhóm nghề, để chuẩn bị tham gia lực lượng lao động không đạt kết quả, theo các chuyên gia giáo dục nguyên nhân chính là vì các trường phổ thông phân luồng thường chuyên biệt hoá ngành nghề quá nhanh và quá sớm, mặt khác chưa phân biệt được loại lao động nào được đào tạo tại trường phổ thông, loại nào được đào tạo tại trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp.
Về Giáo Dục Đại Học
Giáo sư Dương Thiệu Tống cho biết dưới con mắt người nước ngoài, một trong những điểm khác lạ của đại học nước ta là không đặt tầm quan trọng vào các môn học làm nền tảng (liberal arts) như văn chương, triết học, ngoại ngữ, lịch sử, khoa học… để phân biệt với các môn học chuyên nghiệp. Ông ghi lại nhận xét của một giáo sư trường Đại học Indiana sau một cuộc viếng thăm và góp ý kiến cho nền giáo dục đại học Việt Nam, như sau: “Hệ thống giáo dục Việt Nam khác lạ và gần giống như mô hình Xô Viết hơn bất kỳ mô hình của nước nào khác. Không giống như các đại học tổng hợp Hoa Kỳ, ở Việt Nam có nhiều trường đại học riêng lẻ, mỗi trường tập trung vào một ngành nghề hay một lĩnh vực học thuật duy nhất. Người ta không chú trọng lắm đến các môn học để làm nền tảng (liberal arts).”[26]
(2) Tại CLB Phaolô Nguyễn văn Bình, 2008, nhà văn Nguyên Ngọc sau khi cho biết đã có nhiều cố gắng cải cách giáo dục trong những năm qua đã đặt câu hỏi: Tại sao đã cố gắng khá tích cực mà vẫn không hiệu quả? Và ông nhận định rằng nguyên nhân là ở chỗ chỉ sửa chữa theo kiểu vá víu, trong khi vấn đề khủng hoảng giáo dục ngày nay lại nằm ở gốc. Cái gốc đó chính là triết lý giáo dục, tức là câu hỏi nền giáo dục ngày nay đang nhắm mục đích gì, đào tạo những con người ra sao? Rồi để trả lời cho câu hỏi đó, nhà văn không ngần ngại cho rằng triết lý giáo dục trong xã hội Việt Nam hôm nay đang bị lạc hướng. Lạc hướng vì chỉ nhắm đào tạo những con người học thuộc lòng, lập lại những gì người khác truyền lại chứ không đào tạo những con người biết suy nghĩ cách độc lập và trưởng thành.
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn cũng nói lên hai nỗi ưu tư lớn là (1) làm sao thoát khỏi các quan niệm độc quyền và giáo điều đã đè nặng lên lối giáo dục ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ? Và (2) làm sao thoát khỏi lối nhìn thiển cận về giáo dục, chỉ nhìn giáo dục nhắm tới lợi ích nhất thời và trước mắt, thay vì hoà chung vào dòng chảy văn hoá của thế giới nhằm vun đắp tinh thần khoa học, tính nhân văn và tình liên đới nhân loại?
4/ Hậu Quả Xã Hội Ghi Nhận Về Lổ Hỏng Của Giáo Dục Tại Việt Nam Hiện Nay
4.1/ Tình Trạng Trẻ Thất Học
Tuần san Báo Công Giáo và Dân Tộc số 1976 tuần lễ từ 26/9 – 02/10/2014 ghi nhận theo số liệu báo cáo công bố tại hội thảo “Báo cáo trẻ em ngoài nhà trường: Nghiên cứu tại Việt Nam” do Bộ GD&ĐT và UNICEF (Tổ chức Bảo vệ Trẻ em của Liên Hiệp Quốc) phối hợp tổ chức thì hiện nay có tới 1,1 triệu trẻ em Việt Nam độ tuổi từ 5-14 chưa từng được đến trường học hoặc đã bỏ học. Trong số này tỷ lệ trẻ em 5 tuổi ngoài nhà trường chiếm 12,19% tổng số trẻ em cùng độ tuổi; trẻ tứ 6-10 tuổi là 3,97% và từ 11 – 17 tuổi là 11,17%.
Hiện có 2,57% trẻ em từ 5-17 tuổi chưa bao giờ được đi học. Phần lớn là trẻ em nghèo, sống vùng xa xôi hẻo lánh, trẻ em thiểu số, khuyết tật và di cư.
[...] Tỷ lệ trẻ đã đi học nhưng sau đó thôi học tăng mạnh theo độ tuổi. Ở tuổi 14, tuổi cuối cấp trung học cơ sở có gần 16%. Ở tuồi 17, độ tuổi cuối cấp trung học phổ thông tỷ lệ học sinh thôi học tăng 39%. Tình trạng đi học quá độ tuổi ở các cấp tiệu học và trung học cơ sở chiếm gần 6%.
4.2/ Những Hành Vi Bạo Tàn Do Thiếu Giáo Dục Đang Xảy Ra Một Cách Đáng Ngại
Theo báo Tuổi Trẻ, mục Chính Trị - Xã Hội, diễn đàn Chúa nhật, ngày 05/10/2014 [27], khi nói về những tội phạm trong xã hội Việt Nam gần đây[28] ông Đinh Văn Quế, nguyên chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao nói:
Xã hội trước đây cũng có án giết người nhưng không có nhiều vụ man rợ, tàn bạo như bây giờ. Hồi ấy, chủ yếu là các băng đảng hình sự cướp của giết người, thanh toán lẫn nhau.
Còn bây giờ lại có nhiều vụ do chính người thân thiết ra tay ác độc với nhau. Thậm chí, có những vụ man rợ đến mức mà chính tôi suốt bao nhiêu năm ở ghế xét xử cái ác cũng phải bất ngờ, ghê rợn. Cái ác có vẻ ngày càng dữ dội hơn, khủng khiếp hơn. Nhiều người không còn sợ pháp luật nữa.
Theo ông Quế, nguyên nhân là do trong nền giáo dục của chúng ta giáo dục chỉ là để kiếm sống, để tồn tại trong xã hội, mà thiếu giáo dục hướng thiện, thiếu rèn luyện nhân cách cho con người, thiếu gương lành, pháp trị mà không đề cao nhân trị nên cũng không đi đến đâu trong việc răn đe và nghiêm trị.
Và cũng theo ông Quế, cần xây dựng một nền giáo dục hướng thiện thật sự, rèn nhân cách trước khi rèn nghề, giáo dục hiệu quả không chỉ ở một mối nơi nhà trường mà còn từ tổng hòa cả gia đình xã hội và tôn giáo. Ông Quế xác quyết rằng : “Xây dựng một nền giáo dục hướng thiện phải được nhận thức là một chiến lược cấp bách của quốc gia. Nó phải được thực hiện tổng hòa trên cả nhà trường, gia đình và xã hội. Giáo dục đạo đức của chúng ta thời gian qua quá xa rời thực tế, nhiều mỹ từ to lớn mà sáo rỗng, người học không thể cảm xúc, hấp thụ được. Hãy mạnh dạn thay đổi mới mong thay đổi được bản chất xã hội.”
Đồng tình với ý kiến của ông Quế, ông Lê Hoàng Việt Lâm, giảng viên Đại học An Ninh Nhân Dân cho rằng những hành vi tàn ác xuất hiện như một hiện tượng “bình thường” trong xã hội, đó là hậu quả của sự suy đồi chuẩn mực đạo đức trong xã hội, là hệ quả của lối sống buông thả cá nhân, là sự giải quyết không đến nơi đến chốn của chính quyền các cấp, là mâu thuẫn nội tại về lợi ích vật chất...[29]
5/ Sự Cần Thiết Phải Có Sự Tham Gia Của Tôn Giáo Vào Việc Xã Hội Giáo Dục
Cần một triết lý giáo dục thì nếu hiểu triết lý giáo dục là lời đáp cho câu hỏi về mục đích của giáo dục là gì và đào tạo những con người ra sao? Và cần thiết phải có những con người làm công tác giáo dục biết lấy cái Tâm làm đầu và đặt cái Nhân làm trọng.
Giáo Hội Công Giáo theo truyền thống của mình có một triết lý giáo dục, mà nét độc đáo của triết lý giáo dục Công Giáo là đặt phẩm giá con người như là một con người, một ngôi vị trước hết và trên hết. Theo hướng dẫn của Giáo Hội Công Giáo, người làm công tác giáo dục luôn đặt tinh thần phục vụ vô vị lợi và lấy học sinh làm trọng tâm theo tinh thần “ngày sa-bát được lập nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát”(Mc 2,27), nghĩa là “trường học được lập ra vì sự thăng tiến học sinh chứ không phải dùng học sinh để lập thành tích cho trường học.”
Không ít người lớn tuổi, dù là công giáo và hay ngoài công giáo, nhớ về những mái trường công giáo trước 1975 tại miền Nam Việt Nam, và tự hỏi: tại sao Giáo Hội Công Giáo Việt Nam lại không tiếp tục công việc tốt đẹp như thế? Cũng có một sự thật hiển nhiên là trong hầu hết các quốc gia, Giáo Hội Công Giáo hoạt động rất mạnh và có uy tín lớn trong lãnh vực giáo dục. Nói ra hay không nói ra, ẩn bên trong những thành công và đóng góp đó là triết lý giáo dục Kitô giáo với mô hình đào tạo con người toàn diện, đào tạo những con người biết tiếp tục tự đào tạo, và nhấn mạnh phẩm chất đạo đức của nhà đào tạo.
Trong bối cảnh hiện tại, sau 40 năm không còn trường công giáo, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn luôn hy vọng và mong chờ được cộng tác vào việc giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam sống xứng đáng như một con người và một nhân vị. Dần dần, với đà phát triển của xã hội, giáo dục ngày càng có nhiều nhu cầu cần được đáp ứng, với những thiện chí từ phía Giáo Hội Công Giáo, nhà nước từ chính sách độc quyền giáo dục đã thay đổi thành chính sách xã hội hoá giáo dục, cho phép các tổ chức tôn giáo của Giáo Hội Công Giáo tham gia vào một số các hoạt động bác ái từ thiện và giáo dục. Về giáo dục cho đến nay nhà nước cho phép mở các Nhà Trẻ và Mẫu Giáo, và cho phép cách nhỏ giọt việc thành lập lớp Tình Thương, Trung tâm Dạy Nghề, Huấn Nghiệp, chưa cho phép Giáo Hội mở trường bậc phổ thông và đại học.
ĐHY JB Phạm Minh Mẫn vào năm 2007 đã viết những nhận định của ngài cho Nhóm CLB Phao lô Nguyễn Văn Bình như sau (xin lược trích):
ü Sau hơn 30 năm, tôi thấy báo chí thông tin kết quả của một cuộc điều tra xã hội: 30-40% học sinh Tiểu học nhiễm thói gian lận, lừa dối, 40-50% học sinh Trung học nhiễm thói đó, lên Đại học thì tỷ lệ là 50-60%. Trong một lần sinh hoạt với giáo chức công giáo, tôi hỏi tỷ lệ mà báo chí đưa ra có đúng không? Một giáo viên trả lời rằng thực tế thì còn hơn thế. Vậy trong trường đời ngày nay tỷ lệ ăn gian, nói dối, hàng giả, thuốc giả, học giả, là bao nhiêu?
ü Trong tinh thần hợp tác, 16 dòng tu theo lời tôi kêu gọi gửi gần 100 thành viên tình nguyện đi phục vụ bệnh nhân SIDA tại Trung Tâm Trọng điểm mấy năm nay. Các vị lãnh đạo Thành Phố cho tôi biết lúc đầu chỉ có lối 20% trong số hơn 30.000 bạn trẻ cai nghiện trong khoảng 20 Trung Tâm là nhiễm HIV, sau những năm cai nghiện thì tỷ lệ nhiễm HIV là trên 60%, có vị nói là trên 80%.
ü Báo chí cũng thông tin những ngành liên hệ với y tế thì toa rập nhau trấn lột bệnh nhân…Hình như các ngành, thay vì biến giai cấp vô sản thành người đầy tớ phục vụ nhân dân theo như lời Bác dạy, thì thực tế cho thấy là giai cấp vô sản biến nhân dân thành vô sản, và tự biến mình thành một giai cấp mới mà tôi nghe nhiều người gọi là tư sản đỏ. Ngày nay khi mà một viên chức Nhà Nước phải chia 1.000 tỷ đồng cho người vợ ly dị, thì không còn là tư sản nữa, mà phải gọi là tư bản hay đại gia đỏ. Lâu lâu rồi, tôi thấy báo chí tường thuật lời ông Tổng Bí Thư tuyên bố tham nhũng là quốc nạn. Có lẽ là quốc nạn cho người dân, chớ còn đối với nhiều đày tớ của nhân dân, đó là cơ hội tốt để trở thành đại gia đỏ.
ü Hợp tác với cách quản lý giáo dục và y tế xem là bệnh hoạn như thế thì được gì, mất gì? Sự hợp tác đó có góp phần lành mạnh hoá nền giáo dục và y tế? Hay tạo điều kiện cho cơn bệnh thêm trầm trọng?
ü CLB. Phaolô NVB nghiên cứu xem coi thái độ bất hợp tác và thái độ hợp tác của Giáo Hội trong lịch sử 50 năm qua, mỗi thái độ có những lợi và hại nào, đối chiếu cái lợi và cái hại của hai thái độ, và đề xuất bài học thực hành cho mọi thành phần tôn giáo và xã hội biết cách nào góp phần vừa xây dựng đất nước vừa lành mạnh hoá đời sống dân tộc. Có được thế thì sự phát triển đất nước và con người mới vững bền.
5/ Giáo Hội Công Giáo Có Nhiệm Vụ Tham Gia Vào Các Nền Giáo Dục Để Giúp Con Người Đạt Tới Ơn Cứu Rỗi
Thay cho lời kết, tôi xin được trích lại lời của Công đồng Vatican II trong Tuyên Ngôn Về Giáo Dục đã khẳng định rằng: “Sứ mệnh giáo dục của Giáo Hội bắt nguồn từ bản tính xã hội của mình và từ quyền lợi của con người mà Giáo Hội có bổn phận phải thăng tiến.”[30] Giáo Luật điều 794 cũng minh định rằng: "Do một danh nghĩa đặc biệt, Giáo Hội có bổn phận và quyền lợi đảm nhiệm việc giáo dục; bởi vì chính Thiên Chúa đã uỷ thác cho Giáo Hội sứ mệnh giúp đỡ loài người đạt tới sự sung mãn của Kitô giáo. Các Vị Chủ Chăn phải làm hết sức những gì cần thiết để mọi tín hữu được hưởng một nền giáo dục Công Giáo."[31] Mọi Kitô hữu đều có quyền hưởng một nền giáo dục Kitô, vì nó không chỉ giúp con người trưởng thành về mặt nhân bản, mà còn mục đích cao hơn là giúp cho người tín hữu ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh và được hướng dẫn để hiểu biết dần dần về mầu nhiệm cứu rỗi[32].
Theo bản tổng kết về mặt giáo dục xã hội trong 26 giáo phận của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam ngày 31/12/2006 có 748 Nhà Trẻ - Mẫu Giáo và lớp học tình thương, 2 trường phổ thông (1 trường ở giáo phận Long Xuyên và 1 trường ở giáo phận Cần Thơ) và 3 trung tâm văn hoá của giáo phận Ban Mê Thuột.[33] Dòng Salesien Don Bosco có 3 trung tâm dạy nghề, 1 trung học nghề và 7 cơ sở dạy nghề[34]; dòng La San có 3 trung tâm dạy nghề và một trường tiểu học tư thục[35]. Trong hoàn cảnh hiện tại của nền giáo dục nước nhà, khi tham gia vào các hoạt động giáo dục các tu sĩ Công Giáo ý thức rằng họ đang góp một phần vào việc xây dựng quê hương đất nước và phục vụ đồng bào, dân tộc ngày càng tốt đẹp hơn; qua các công tác giáo dục họ tin rằng mình đang cộng tác với Thiên Chúa và công trình tạo dựng và cứu độ của Ngài, nhằm góp phần xây dựng một đời sống nhân bản và sống có niềm tin cho dân Việt.
Trong niềm hy vọng hướng về tương lai, Giáo Hội Công Giáo ước mong được góp phần của mình tích cực hơn nữa vào việc xây dựng một nền giáo dục đích thực, như bổn phận và quyền đảm nhiệm việc giáo dục của Giáo Hội, bảo đảm việc huấn luyện con người, hướng về mục đích tối hậu của con người và cả về những ích lợi chung của toàn xã hội, giúp cho người trẻ lớn lên trong sự phát triển hài hoà về mọi khía cạnh sinh lý, luân lý, trí tuệ, tâm linh, đạt được một ý thức toàn hảo về trách nhiệm và biết sử dụng tự do một cách hợp lý, tham gia tích cực vào đời sống xã hội[36].
Hoa Hạ, fsc
Tháng 01/2015
[1] Trích APIED – News letter N.36/1990 - Nguyễn Ngọc Thanh dịch (xem Giáo Dục Học Đại Cương, Huế 1997, trang 50.
[2] Xem Dòng Các Sư Huynh Trường Kitô Tại Việt Nam, Tuyển Tập Tài Liệu, trang 12 – 13, Tỉnh Dòng La San Việt Nam, 1996 (tham chiếu H. Froidevaux, L'Oeuvre scolaire de la France aux colonles, Paris, 1990, trang 156 – 1576)
[3] Các nữ tu Dòng thánh Phaolô khi đến Sài Gòn theo yêu cầu của Đức cha Lèfèbre, hoạt động giáo dục trước tiên là nuôi trẻ mồ côi trong các cô nhi viện của chính quyền hay do các linh mục thừa sai xây cất. Sau đó lập nhà nuôi các bà mẹ lầm lỡ, dạy nghề cho họ tự mưu sinh, mở lớp dạy nghề và trường học cho các trẻ mồ côi đã lớn.
Từ 1900 – 1960 với nhu cầu phát triển giáo dục, phát triển tri thức, Dòng Thánh Phaolô chú tâm hơn đến việc thành lập các trường Trung tiểu học. (Nguồn: Báo cáo của Tỉnh Dòng Phaolô Sài Gòn, tháng 4/2009 và sinhvienconggiao.net)
1883 Dòng đến Hà Nội mở trường học (Saint Marie) và 1889 dòng hiện diện tại miền Trung. 1954, tỉnh dòng Hà Nội di cư vào miền Trung, đặt trụ sở tại Đà Nẳng và từ đó mang tên Tỉnh Dòng Đà Nẳng.. (Nguồn: www. tgphanoi.org).
[4] 1924 Dòng Đức Bà Truyền Giáo đến Phát Diệm phục vụ trẻ câm điếc, trại tế bần, chẩn y viện, nhà trẻ. Những năm sau đó phát triển đến các tỉnh Thanh Hoá (1926), Lạng Sơn (1927), Sầm Sơn (1929), Hà Nội (1953) và rồi phải di cư vào Nam năm 1955. Tại miền Nam hiện diện ở Huế (1955), Sài Gòn, Nha Trang (1956) và tiếp tục phát triển tại các tỉnh thành miền Nam Việt Nam. (Nguồn: www. gpnt.net.)
[5] Từ 1955 trường Regina Pacis được thành lập một vài lớp tiểu học và mỗi năm số lượng học sinh tăng dần. Đến năm 1959 thành lập thêm Trung Tâm Trẻ Em Bại Liệt (Nguồn: Dòng Nữ Tử Bác Ài cung cấp, tháng 4/2009)
[6] Năm 1935, theo lời mời của Nam Phương Hoàng Hậu, các nữ tu Dòng Đức Bà đến Đà Lạt lập Trường Đức Bà Lâm Viên (Notre Dame du Langbian).
[7] Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, phần Thời Kỳ Trưởng Thành (1960 đến nay). Nguồn: Trang tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
[8] Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, phần Thời Kỳ Trưởng Thành (1960 đến nay). Nguồn: Trang tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
[9] Không có số liệu về các trường học này.
[10] Thống kê năm 1969, các Hội dòng Mến Thánh Giá đảm nhận việc giáo dục cho 117 408 học sinh tiểu học và trung học không phân biệt tôn giáo, trong 386 trường học do các cnữ tu thành lập. (Nguồn: Hội Dòng MTG Thủ Thiêm cung cấp vào tháng 4/2009 – Bản báo cáo hoạt động giáo dục)
[11] Dòng Thánh Phaolô gồm 3 Tỉnh Dòng: Sài Gòn, Đà Nẳng, Mỹ Tho.
Tỉnh dòng Thánh Phaolô Sài Gòn thành lập hai trường tư thục dành cho nữ sinh là Trường Saint Paul và Trường Thiên Phước. Ngoài ra tại hầu hết các cộng đoàn đều thành lập Ký Nhi Viện tiếp nhận trẻ từ 3 đến 5 tuổi con em của người lao động nghèo tại địa phương. (Nguồn: Tỉnh Dòng Thánh Phaolô Sài Gòn cung cấp tháng 4/2009)
[12] Dòng Đức Bà – Kinh Sĩ Thánh Âu Tinh:
Trường Đức Bà Lâm Viên đã được thành lập từ 1935, gồm cả hai bậc học tiểu học và trung học chuẩn bị thi Tú Tài Pháp (1960 – 1964) từ 1964 trở về sau có hai chương trình Việt Pháp tuỳ thí sinh tự chọn. Trường tiếp tục hoạt động cho đến 1975 thì bị đóng cửa theo chính sách nhà nước.
Tại Sài Gòn, 1960 lập trường Nữ Vương Thế Giới (Regina Mundi) đón nhận học sinh từ mẫu giáo đến Trung học, thi Tú Tài Pháp. Trong thời gian đó các môn tiếng Việt được gia tăng dần. Cùng thời gian ấy Dòng sáng lập trường đào tạo giáo viên kiêm cán bộ xã hội để phục vụ các trường cho người dân nghèo: Trường Công Tâm, Trường Thiên Lý, cũng như mở các lớp học bình dân học vụ và dạy cắt may cho giới nghèo. Tất cả các trường trên đều bị đóng cửa theo chính sách quốc hữu hoá của nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. (Nguồn: Tài liệu do Dòng Đức Bà cung cấp tháng 4/2009).
[13] Dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn: Tại Sài Gòn các nữ tu thành lập các trường Mẫu giáo, Trung Tiểu học, lưu xá, trường Kỹ thuật.
- Trường Nữ Vương Hoà Bình (Regina Pacis) là trường Nữ Trung Học, nhận học sinh bán trú tiểu học và nội trú tiểu học và trung học, có dạy cả chương trình Pháp và Việt; lập lưu học xá cho các nữ học sinh và sinh viên nghèo gia đình xa Sài Gòn; dạy kỹ thuật phụ nữ về cắt may, gia chánh, kinh tế gia đình, dinh dưỡng thực hành, dụ nhi... Cuối niên học 1975 – 1976 trường ngưng hoạt động và bị quản lý theo chính sách quốc hữu hoá giáo dục của Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
- Trường Vinh Sơn gồm Tiểu Học và Mẫu giáo Việt và Vườn trẻ Pháp. Sau niên học 1975 – 1976 trường do nhà nước quản lý.
- Trung tâm Caritas gồm Trường Sư Phạm Vườn Trẻ (1961), Vườn Trẻ Mẫu Giáo Vườn Hồng (hai cơ sở này nay là Trường Tuổi Thơ 7 của Nhà Nước); Lớp Cán Bộ Sư Phạm Vườn Trẻ và Vườn Trẻ Mẫu Giáo Măng Non (nay là 32 bis Nguyễn Thị Diệu)
[14] Dòng Đức Bà Truyền Giáo:
Thành lập 2 trường Trung Tiểu Học là Trường Notre Dame des Mission ở Thủ Đức, Trường Thánh Tâm ở Nha Trang, 6 trường Tiểu học và 6 lớp học tình thương cho người nghèo. 1964 lập Nhà Ðà Lạt cho các nữ tu kinh viện phục vụ làng Thượng, chăm lo giáo huấn cho các em nhỏ trong khu phố sau giờ tan học.
1967 có mặt ở Phước Long , truyền giáo cho Dân tộc Stiêng, mở trường dạy nghề, khai mở văn hóa cho đến 1975 phải di dời về Sài Gòn vì chiến cuộc (Nguồn: Tài liệu do Dòng Đức Bà Truyền Giáo cung cấp tháng 4/2009)
[15] Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ
- Tại cộng đoàn Thánh Tâm (Nhà Tỉnh Dòng – Bình Thạnh): Năm 1958, ngay sau khi lập cộng đoàn, các nữ tu dạy ngoại ngữ và giáo lý, sau đó mở trường Trường Thiên Ca. Đến 1961 trường có cả Mẫu Giáo và Tiểu Học. Các nữ tu cũng mở thêm lớp tình thương cho học sinh nghèo và xoá mù cho trẻ thất học lớn tuổi.
Trong thời gian này các nữ tu cũng mở một trung tâm dành cho các bà mẹ, phối hợp với Hội Chũ Thập Đỏ và Hội OXFAM, huấn luyện họ chăm sóc con cái, vệ sinh môi trường, lớp may.
- Tại cơ sở Bà Huyện Thanh Quan1969 các nữ tu Phan Sinh thành lập trung tâm đón tiếp và Huynh Đệ Đoàn Tin Mừng giúp đỡ giới trẻ và những ai cần định hướng cuộc sống, đặc biệt là sinh viên; tổ chức thư viện, tủ đĩa hát.
- Tại Đà Lạt: 1959 mở Trường Đức Mẹ Lộ Đức dạy mẫu giáo và tiểu học theo chương trình Pháp và có một vười trẻ chương trình Việt. Trường cũng mở nhà nội trú cho nữ sinh. 1962 mở thêm các lớp chương trình Việt. 1965 đổi thành Trường Đức Mẹ.
1961 lập trường Viego Maria dạy từ Vườn Trẻ đến đến Tiểu Học theo cả hai chương trình Pháp – Việt. Đến 1966 đào tạo thêm ngành kế toán và thư ký đánh máy cho giới trẻ. Năm 1969 mở thêm ngành thương mại và tách thành Trường Thương Mại Việt Nữ. 1973 – 1974 Khoa Thương Mại có 35 sinh viên năm 1 và 39 sinh viên năm 2.
Bên cạnh đó các nữ tu Phan Sinh còn tổ chức các khoá huấn luyện cho các nữ tu về lịch sử Việt Nam, nuôi dạy trẻ, kinh tế gia đình, nghệ thuật nấu ăn, giáo lý... để học có thể đáp ứng được sứ vụ trong hoàn cảnh xã hội mới. Các nữ tu còn tham gia công tác thăng tiếnvăn hoá cho anh em dân tộc cùng với các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế và Don Bosco.
Tại Phan Rang, năm 1969 các nữ tu đến lập Trung tâm Văn hoá Chăm, mở lớp dạy nữ công gia chánh phục vụ anh em dân tộc Chăm.
Tại Suối Dầu, năm 1970 các nữ tu lập nhà nội trú dân tộc Hà Dừa, mở Ký Nhi Viện và các lớp cắt may cho người dân tộc, đến 1972 chuyển về Suối Dầu.
[16] Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ:
- Thành lập trường Mẫu Giáo và công tác với nhà xứ điều hành 2 lớp tiểu học (1965) và đến năm 1970 với sự hỗ trợ của chính phủ Italia, nhà trường được xây mới mang tên Diardino Lina.
- Thành lập trường Trung Học cho nữ sinh tại Tam Hà Thủ Đức, các nữ tu cũng nhân nội trú, và đến 1970 phát triển cơ sở giảng dạy, nhân thêm nội trú.
- Năm 1973, linh mục chánh Xứ nhờ các nữ tu coi sóc việc học cho các em làng Nam.
- Những hoạt động kể trên đều ngưng lại bởi sau 1975 chính sách quốc hữu hoá giáo dục của Nhà Nước.
[17] Các Dòng Mến Thánh Giá (số liệu nhận được từ các Dòng MTG Chợ Quán, Thủ Thiêm, Tân Việt, Phát Diệm, Khiết Tâm)
- MTG Chợ Quán:
Dạy trường Tiểu Học các họ đạo nơi các nữ tu được sai tới phục vụ.
1947 lập Trường Tu Thục Trung Tiểu Học Saint Esprit, sau đổi thành Trường Thánh Linh.
1962 lập Trường Tiểu Học Thánh Antô tại Thạnh Lộc, Q. 12, Sài Gòn. Đến 1972 mở thêm lớp dạy cắt may và điện tử cho thanh thiếu niên tại địa phương.
1975 tất cả đều ngưng hoạt động do chínhsách "quốc hữu hoá" giáo dục của nhà nước XHCN Việt Nam.
- MTG Thủ Thiêm:
Từ cuối thế kỷ XIX, các nữ tu của hội dòng đến các xứ đạo thì cũng tham gia vào việc dạy văn hoá trong các trường công, các trường của họ đạo, hoặc của sở, đồn điền cao su. Công tác này được thực hiện cho đến 1975 khi các trường thuộc về quản lý của nhà nước.
Tại nhà chính ở Thủ Thiêm, năm 1955 lập Trường Thánh Anna dạy cho học sinh trung học cơ sở (đệ nhất cấp). Năm 1961 mở thêm chương trình Pháp. 1967 mở thêm trường Nữ Trung Học Thủ Thiêm (có lưu xá cho học sinh) mở Trung Học Phổ Thông (đệ nhị cấp). Trường hoạt động cho đến 1975 thì nhà nước quản lý, các nữ tu đều phải nghĩ dạy.
Theo thống kê năm 1969, Dòng MTG Thủ Thiêm đã có 62 trường Trung - Tiểu Học với 15.137 học sinh.
- MTG Gò Vấp (Phát Diệm):
1956 lập Trường Trung – Tiểu Học Thánh Mẫu đến 1970 thì xây dựng lại thành trường học có 32 lớp học cho 2500 học sinh tiệu học, trung học và các lớp năng khiếu.
1957 lập Trường Trung – Tiểu học Chúa Hài Đồng, đến 1970 xây dựng lại thành trường Nữ Trung Học.
1959 lập trường Thiên Hương (Đà Lạt) đến 1973 mở các lớp trung học lại dành riêng cho nữ sinh.
1962 lập Trường Sao Mai (Bảo Lộc, Lâm Đồng)
Và có nhiều Ký Nhi Viện tại những nơi các nữ tu có công đoàn hiện diện.
- MTGTân Việt
Tham gia dạy học tại các trường tiểu học của giáo xứ Lạc Quang, Vinhsơn Lliên (giáo xứ Tân Việt), Phú Trung, Trường Thống Nhất (của quân đội chế độ cũ). Và lập nhiều trường Mẫu Giáo tại các nơi các nữ tu hiện diện.
- MTG Khiết Tâm: Các nữ tu tham gia dạy học, làm việc hành chánh trong các trường tư hoặc trường giáo xứ hoặc mở trường Tiểu Học Tư Thục như Trung Học Đồng Tiến (1971 – 1975), Trung Học Saviô (1972 – 1975), Trung Học Trung Tâm Văn Hoá - Xã Hội Trần Hưng Đạo (1972 – 1975), Trung Tâm Văn Hoá - Xã Hộ của Bộ Tổng Tham Mưu chế độ cũ (1970 – 1975), giáo xứ Tân Phước (1970 – 1973), giáo xứ Nam Hải (1970 – 1973), giáo xứ MạcTyNho (1970 – 1977).
Mở các Ký Nhi Viện Tân Phước, Mai Hương, Đống Tiến, Mai Tâm.
[18] Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm - Huế: Với sứ mạng giáo dục giới trẻ về văn hoá và đức tin, từ năm 1923 đến 1975, các nữ tu đã phục vụ tại các tỉnh Huế, Quảng Trị, Pleiku, Sài. Hội dòng có đến 70 điểm giáo dục từ cấp tiểu học đến trung học. Sau 1975, chính quyền nhà nước XHCN quản lý các cơ sở giáo dục của Hội dòng.
[19] Dòng Đaminh Lạng Sơn (số liệu về các dòng nữ Đaminh không có, chỉ có Dòng Đaminh Lạng Sơn)
1969 Hội Dòng thành lập Trường Trung Tiểu Học Dũng Lạc. Trường ngưng hoạt động năm 1975.
[20] Việt Nam Công giáo Niên Giám 1964, tr. 506. Xem Lữ Giang, Góp Một Bàn Tay, Nguồn: Internet.
[21] Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm, Viện Đại Học Giữa Lòng Dân Tộc Việt Nam, chương II, mục 1. Nguồn: www.erct.com
[22] Hồ Hữu Nhựt,sđd, trang 149 – 178 và 236 - 242
[23] Chú thích: Nội dung chương trình giáo dục nặng về chính trị hơn là đạo đức nhân văn, đưa tân toán học vào quá sớm làm giáo viên lúng túng, học sinh thiếu căn bản về toán. Chữ viết cải cách không phù hợp. Sự sáp nhập cấp I vào cấp II làm cho việc tổ chức phòng ốc, cơ sở vật chất giáo dục không phù hợp với lứa tuổi học sinh… Đại học và cao đẳng đào tạo theo diện hẹp, chỉ đào tạo nhân lực cho các cơ quan đơn vi nhà nước, chính sách ưu tiên làm cho chất lượng tuyển sinh thấp” (xem Hồ Hữu Nhựt, sđd, trang 236)
[24] Chú thích: xem thêm Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, trong Đặng Vũ Hoạt và cộng sự, Giáo dục học đại cương, Huế 1997, trang 63 – 65.
[25] Tham khảo nhật báo Tuổi Trẻ, kể từ số ra ngày 23.10.2004 về sau.
[26] Ts. Dương Thiệu Tống, Suy nghĩ về Văn hóa – Giáo dục Việt Nam, nxb Trẻ, 2002, trang 117 -133.
Xin đọc thêm bài "Khủng Hoảng Giáo Dục: Nguyên Nhân Và Lối Ra Trước Thách Thức Toàn Cầu Hoá" của giáo sư Hoàng Tuỵ đăng trong Dạy và Học Ngày Nay số tháng 8/2008
Và Tập Những Vấn Đề Giáo Dục Hiện Nay – Quan Điểm Và Giải Pháp ghi nhận những bài phát biểu trong buổi Toạ Đàm tại CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình ngày 19/01/2008.
[28] Giết người rồi phanh thây mang đi tẩu tán hoặc tiêu hủy.
[30] GE số 2
[31] GL điều 794, khoản 1 và 2.
[32] GE ghi chú số 20.
[33] Bản tin Hiệp Thông, Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam, Số Liệu Thông Kê. Nguồn: www. hdgmvn.org.
[34] Nguồn: Do Dòng Salesien Don Bosco cung cấp tháng 4/2009.
[35] Nguồn: Do Dòng La San cung cấp tháng 4/2009.
[36] Xem Giáo Luật khoản 794.
No comments:
Post a Comment